FacebookZaloLinkedinYoutube
FacebookZaloLinkedinYoutube
CLINZEX DIỆN MẠO MỚIDIỆN MẠO MỚICHUỖI CUNG ỨNG VINHTHINH BIOSTADT HƯỚNG ĐẾN PHÁT TRIỂN BỀN VỮNGChế phẩm thảo dược tổng hợpENVOMIN - AQUAMIN - SUP PREMIX - ECO MINERALESOMAX - HOẠT CHẤT TINH DẦU KHÁNG SINH - GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT BỆNH GAN TỤY VÀ PHÂN TRẮNGRa mắt sản phẩm mới Yucca VTB ZUCCA - QUILA YUCCA - TF ZUCCA - ECO ZUCCAKhoáng tạt cao cấpWOKOZIM TỐI ƯU HÓA MỌI GIẢI PHÁPTHUỐC TRỪ SÂU SINH HỌCuongveoVinhthinhbiostadtGiống tôm thẻ chân trắng VTBHSản phẩm Nông NghiệpWokozim đã được sử dụng trên 40 loại cây trồng và hơn 20 quốc gia trên thế giớiLiên doanh giữa Vinhthinh & tập đoàn Biostadt -Ấn ĐộVinhthinh Biostadt
Trang chủ Trang chủTin tứcSẢN XUẤT GIỐNG CÁ, TÔMỨng dụng vi sinh trong sản xuất tôm giống

Ứng dụng vi sinh trong sản xuất tôm giống

Các thuật ngữ microbiomemicrobiota thường bị nhầm lẫn với nhau. Microbiota là một tập hợp con của microbiome, đề cập đến các vi sinh có mặt trong một môi trường nhất định. Microbiome đề cập đến tổng số bộ gen và sản phẩm gen của tất cả vi khuẩn, vi khuẩn, nấm, động vật nguyên sinh, vi rút có trong một môi trường cụ thể. Nó có thể ở trong và trên động, thực vật hoặc có thể bất kỳ yếu tố nào của môi trường bao gồm các vật thể. Trong nuôi trồng thủy sản, nó được sử dụng để chỉ sự hiện diện bên trong, bên ngoài của một động vật thủy sản nhất định hoặc có thể đề cập đến các yếu tố riêng lẻ của môi trường sản xuất chẳng hạn như nước, không khí. Một microbiome chỉ là một tập hợp con của một hệ sinh thái, giống như microbiota là thành phần của một microbiome.

Cách đây không lâu, phần lớn microbiome đã bị ẩn khỏi khoa học. Người ta cho rằng chúng ta có thể phát triển hầu hết các thành phần trên môi trường nhân tạo và nhiều nhà nghiên cứu đã báo cáo những thay đổi lớn trên microbiome dựa trên các quan sát về cách các giao thức thử nghiệm thay đổi so với những gì có thể nuôi cấy. Giờ đây, nhờ sử dụng các công cụ hiện đại chúng ta có thể mô tả tất cả các yếu tố của một hệ vi sinh vật nhất định, phần lớn trong số đó chúng ta biết không thể nuôi cấy được. Điều này đã cho phép chúng ta thấy microbiotamicrobiome phức tạp như thế nào, nó có thể bị ảnh hưởng như thế nào khi sử dụng nhiều vật liệu khác nhau trong thức ăn và trong môi trường. Mặc dù đang phát triển nhưng chúng ta cần có một ý tưởng rõ ràng hơn, ý tưởng về các yếu tố vi sinh và hệ vi sinh vật là gì?

1. Sản xuất giống tôm

Sản lượng tôm trên toàn cầu chưa được biết con số chính xác, giao động trong khoảng 3,8 đến 5 triệu tấn. Nếu sử dụng con số cao nhất, để sản xuất 5 triệu tấn tôm nuôi ước tính cần 500 tỷ con giống (PL) phải được sản xuất (giả định trọng lượng trung bình 20 g khi thu hoạch, tỷ lệ sống 50% trong trại giống). Hàng ngàn trại sản xuất giống ở hàng chục quốc gia trong tình trạng công nghệ sản xuất phần lớn tương đối nguyên thủy. Mặc dù các hoạt động lớn hơn có thể tạo ra một tỷ PL hoặc nhiều hơn mỗi tháng, vẫn có nhiều trại sản xuất giống nhỏ hơn. An toàn sinh học nói chung là yếu bất kể quy mô của cơ sở và người sản xuất quá thường xuyên bỏ bê các công cụ khoa học (quan sát cá nhân của Newman).

2. Vibrio trong sản xuất tôm giống

Một trong những vấn đề phổ biến nhất trong trại giống là bệnh do nhiễm vi khuẩn Vibrio. Vibrio có mặt khắp nơi trong biển, nó phục vụ một chức năng quan trọng trong việc tái chế chitin, thành phần cấu trúc của xương sống giáp xác. Trong số đó, một số là mầm bệnh ở người (Vibrio parahaemolyticus, Vibrio cholerae) mặc dù nhiều loại khác là mầm bệnh động vật thủy sinh (Vibrio parahaemolyticus, Vibrio anguillarum …). Theo bài báo này, khoảng 147 loài khác nhau đã được xác định với hàng trăm chủng biến thể.

Một trong những vấn đề phổ biến do Vibrio gây ra trong trại tôm giống được gọi là hội chứng Zoea. Zoea là giai đoạn cho ăn đầu tiên của tôm ấu trùng và tỷ lệ hao hụt lớn có thể xảy ra ở giai đoạn rất nhạy cảm này nếu Vibrio không được kiểm soát đầy đủ. Giải pháp đầu tiên để kiểm soát tác động của Vibrio trong trại giống tôm thông qua việc sử dụng vi sinh được phát triển bởi Giovanni Chasin và xuất bản bởi Garriques ở Ecuador vào đầu những năm 1990. Họ báo cáo các chủng Vibrio từ tự nhiên có khả năng phân giải sucrose trên môi trường chọn lọc được sử dụng rộng rãi cho Vibrio, thiosulfate-citrate- bile salts -sucrose agar (TCBS). Chúng tạo thành các khuẩn lạc màu vàng, khi thêm một số lượng lớn vào trong sản xuất giống đã làm giảm đáng kể mức độ nghiêm trọng của bệnh.

Những Vibrio này (điển hình là Vibrio alginolyticus) không có độc lực đã được kiểm tra thường xuyên về tính nhạy cảm để xác minh.Tuy nhiên, việc không hiểu mức độ đa dạng của đơn vị phân loại và trao đổi vật chất di truyền dễ dàng như thế nào đã dẫn đến việc trại giống bị mất toàn bộ quá trình sản xuất.

3. Kết quả ứng dụng vi sinh trong sản xuất tôm giống

Thử nghiệm được tiếp tục mặc dù nó có thể có nhược điểm nghiêm trọng. Việc sử dụng một loài vi khuẩn ít có khả năng gây ra các vấn đề cấp tính như một kết quả của việc trao đổi vật chất di truyền với các chủng độc lực. Với suy nghĩ này, sử dụng của một số vi khuẩn gram dương nuôi bào tử đã được kiểm tra về khả năng tác động đến Vibrio trong một trại giống tôm ở Ấn Độ. Một sản phẩm dạng viên (PRO4000X) chứa tỷ lệ bằng nhau của các chủng Bacillus subtilis được lựa chọn đặc biệt và B. licheniformis đã được thêm vào các trại sản xuất giống và các tác động lên tổng Vibrio được xác định (Hình 1, 2).



Hình 1 - Tác động của Bacillus (PRO4000X) đối với (màu vàng trên TCBS) Vibrio trong bể tôm giống



Hình 2 - Tác động của Bacillus (PRO4000X) đối với (màu xanh lá cây trên TCBS) Vibrio trong bể tôm giống

Các thử nghiệm này đã chứng minh rằng các chủng Bacillus độc quyền này khi được bổ sung hàng ngày vào bể nuôi tôm có thể làm giảm đáng kể Vibrio và giữ chúng ở mức thấp. Đây là một ví dụ về ứng dụng trong sản xuất có tác động mạnh mẽ đến sự hiện diện của mầm bệnh được cho là thường xuyên và tác động tiêu cực đến sản xuất tôm giống. Các nhân viên trại giống lưu ý rằng các bể nuôi sạch hơn, họ có thể thay nước ít hơn và tôm trong bể thí nghiệm sạch hơn, khỏe hơn, phát triển tốt hơn, không bị các vấn đề ảnh hưởng.

Ví dụ về sử dụng vi sinh này cho thấy sự cắt giảm rõ ràng, mặc dù không phải là tiêu diệt hoàn toàn. Bacillus phải được thêm vào hàng ngày để đảm bảo mật độ không giảm đến mức không còn kết quả mong muốn, tức là giảm Vibrio (cá nhân Habeeb Rahaman). Khi bào tử Bacillus không còn được thêm vào, tác động sẽ biến mất. Không có khả năng Bacillus đã trở thành một thành phần ổn định của hệ vi sinh. Người ta kỳ vọng rằng việc bổ sung hàng ngày sẽ không cần thiết nếu các chủng Bacillus được thêm vào có thể trở thành các yếu tố ổn định của microbiota hoặc microbiome.

Các thử nghiệm này chứng minh rằng trong các trại sản xuất giống tôm có thể thay đổi hệ vi sinh theo cách thêm vi khuẩn có lợi để làm thay đổi thành phần của vi khuẩn thường có. Mặc dù các cơ chế chính xác vẫn chưa được làm sáng tỏ, bằng chứng cho thấy chúng ta đang xem xét một trường hợp đơn giản trong đó các bào tử Bacillus được thêm vào khi nảy mầm cạnh tranh với các loài cư trú để lấy chất dinh dưỡng. Hiệu ứng này cũng đã được ghi nhận trong ao nuôi tôm.

Nhóm vi sinh chuyên dùng cho trại sản xuất giống 





Nguồn: The Hatcheryfeed vol 7, trang 18-19

Người dịch: KS Lê Quang Quý – Công ty Vinhthinh Biostadt

Trở về
Thông tin khác

Sản phẩm tiêu biểu

Hỗ trợ trực tuyến

  • Hotline Vinhthinh Biostadt - Thủy Sản Hotline Vinhthinh Biostadt - Thủy Sản Zalo - ĐT: 0912 889 542
  • Hotline Vinhthinh Biostadt- Nông Nghiệp Hotline Vinhthinh Biostadt- Nông Nghiệp Zalo - ĐT: 0915446744

HOTLINE0912.889.542

Các đối tác của chúng tôi