FacebookZaloLinkedinYoutube
FacebookZaloLinkedinYoutube
CLINZEX DIỆN MẠO MỚIDIỆN MẠO MỚICHUỖI CUNG ỨNG VINHTHINH BIOSTADT HƯỚNG ĐẾN PHÁT TRIỂN BỀN VỮNGChế phẩm thảo dược tổng hợpENVOMIN - AQUAMIN - SUP PREMIX - ECO MINERALESOMAX - HOẠT CHẤT TINH DẦU KHÁNG SINH - GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT BỆNH GAN TỤY VÀ PHÂN TRẮNGRa mắt sản phẩm mới Yucca VTB ZUCCA - QUILA YUCCA - TF ZUCCA - ECO ZUCCAKhoáng tạt cao cấpWOKOZIM TỐI ƯU HÓA MỌI GIẢI PHÁPTHUỐC TRỪ SÂU SINH HỌCuongveoVinhthinhbiostadtGiống tôm thẻ chân trắng VTBHSản phẩm Nông NghiệpWokozim đã được sử dụng trên 40 loại cây trồng và hơn 20 quốc gia trên thế giớiLiên doanh giữa Vinhthinh & tập đoàn Biostadt -Ấn ĐộVinhthinh Biostadt

Nghịch lý Artemia

Artemia - Nguồn tài nguyên quan trọng cho Ngành nuôi trồng Thủy sản và vấn đề nút thắt cho tăng trưởng của ngành trong tương lai

Một trong những cuộc thảo luận sôi nổi nhất trong cộng đồng ngành Nuôi trồng thủy sản toàn cầu chắc chắn vẫn là việc sử dụng Artemia trong việc ương nuôi ấu trùng tôm. Nghịch lý thay, mặc dù điều góp phần tạo nên ngành thủy sản quy mô rộng lớn, lại không được quản lý tốt, cũng có thể là một trong những trở ngại lớn nhất cho sự phát triển cao hơn của ngành công nghiệp Nuôi trồng thủy sản trong tương lai của chúng ta.

Trong một loạt các bài báo xuất bản trên trang web của INVE Aquaculture và phát hành cho một số phương tiện truyền thông ngành Nuôi trồng thủy sản nhất định, họ tập hợp những ý kiến của một số chuyên gia và nhà tiên phong hàng đầu về nghiên cứu Artemia, tập trung vào sự thành công trong chiến lược sử dụng Artemia ở quá khứ,  hiện tại và tương lai ở các trại sản xuất giống cá và tôm trên toàn thế giới.

1. Tầm quan trọng của Artemia

Trong lịch sử, sự khác biệt lớn trong sản xuất giống số loài trong ngành thủy sản và động vật trên cạn luôn là việc ấu trùng của tôm và hầu hết các loài sinh vật biển phải ăn thức ăn tươi sống, trong khi gà và gia súc chấp nhận chế độ thức ăn thụ động (bất động) trong suốt vòng đời của chúng. Ngoài ra, việc sản xuất động vật phù du là không thể thương mại hóa và khó có thể thực hiện về mặt kỹ thuật, những nỗ lực của những nhà tiên phong trong ngành Thủy sản sớm đã bị cản trở bởi nguồn cung cấp thức ăn ấu trùng là không đủ.

Theo Patrick Sorgeloos (Người sáng lập và cựu Giám đốc Trung tâm Thử nghiệm Artemia, Đại học Ghent, Bỉ), khởi đầu của một giải pháp cho vấn đề này đến từ phát hiện của Seale vào năm 1993 tại Hoa Kỳ và Rollefsen năm 1939 tại Na Uy, khi đó - Ấu trùng cá mới sinh ra có thể được nuôi bằng ấu trùng nauplius 0,4mm của một loài giáp xác nhỏ. Chúng phát triển mạnh ở vùng có độ mặn cao, cũng như điều kiện có ít vi tảo và vi khuẩn có thể sống sót. Khám phá này đặc biệt mang lại thú vị về khả năng sinh sản độc đáo của loài giáp xác này.

Ông nói thêm, “Để sinh tồn trong môi trường khắc nghiệt, Artemia đã phát triển khả năng tạo ra “trứng nghỉ”. Những “trứng” Artemia trên thực tế là các trứng chứa phôi có thể ngủ đông. Đây là một sự kiện sinh học hấp dẫn khi một sinh vật rơi vào trạng thái ngủ, ngừng chuyển hóa và chỉ thức dậy khi gặp điều kiện thuận lợi”. Điều này có nghĩa là những phôi không hoạt động được đóng gói, có thể lưu trữ trong một thời gian dài và chỉ cần được ấp trong điều kiện thích hợp sẽ sản xuất ra ấu trùng bơi tự do để làm nguồn thức ăn cho ấu trùng cá và tôm rất tốt. Sự phát hiện này về lý thuyết đã mở ra một hướng tiếp cận đến một nguồn thức ăn tươi sống, có thể sản xuất theo theo nhu cầu.  

2. Sự phát triển của thị trường Artemia

Nguồn cung cấp trứng Artemia thương mại đầu tiên đến từ các ao muối ở khu vực vịnh San Francisco ở California, Hoa Kỳ và sau đó là từ GreatSaltLake, Utah, Hoa Kỳ. Nguồn cung cấp thứ hai là mỏ nguyên liệu thiên nhiên được quản lý và thu hoạch bền vững cho đến ngày nay. Cho đến nay, sản lượng thu hoạch hàng năm ngày càng tăng vượt quá khoảng 30 đến 50 tấn. Từ cuối những năm 1960, tình trạng thiếu trứng artemia ngày càng trầm trọng và tỉ lệ nở của nguồn trứng có sẵn ngày càng kém. Chỉ sau Hội nghị kỹ thuật về nuôi trồng thủy sản của FAO năm 1976 tại Kyoto, tình hình mới bắt đầu thay đổi tốt hơn.

Được FAO ủy quyền thực hiện công việc và dựa trên những nghiên cứu trước đó tại Đại Học Ghent, Sorgeloos, một nhà sinh học và nghiên cứu trẻ người Bỉ, đã thực hiện các công việc để biến việc thiếu hụt Artemia thành 1 ngành thương mại toàn cầu phục vụ cho ngành cho nuôi trồng thủy sản. Việc đó đã dẫn đến việc thành lập Trung tâm thử nghiệm Artemia của INVE Aquaculture.

Công việc được thực hiện bởi Sorgeloos và nhóm của ông đã tập trung vào việc tìm giải pháp chính cho các trở ngại, sự phát triển hơn nữa của việc sử dụng Artemia trong ngành nuôi trồng thủy sản, bao gồm:

- Nhu cầu khám phá các nguồn Artemia tự nhiên mới ở Châu Âu, Châu Á, Bắc và Nam Mỹ, Úc và sự giới thiệu của nguồn trứng nghỉ đến các môi trường sống phù hợp khác như ở Đông Bắc Brazil, Việt Nam và Trung Quốc

- Cải thiện chất lượng trứng bằng cách phát triển các kỹ thuật thu hoạch mới như thu hoạch ở mặt nước thay vì ở bờ hồ nơi các hạt bụi bẩn tích tụ và quá trình hydrat hóa lặp đi lặp lại - ảnh hưởng đến tỷ lệ nở và hàm lượng dinh dưỡng của trứng

- Cải thiện về năng suất bằng cách phát triển các công thức ấp Artemia tiêu chuẩn nhằm thiết lập các điều kiện tối ưu để nauplius nở thành công và đồng loạt.

- Phân loại và đánh dấu sự khác biệt về kích thước, tỷ lệ nở, tốc độ tăng trưởng, giá trị dinh dưỡng,… của Artemia đến từ các nguồn, địa điểm khác nhau và thậm chí là cách thu hoạch

3. Từ "Artemia thô" đến sản phẩm

Trong một thời gian dài, trứng Artemia được thu hoạch đơn giản từ bờ biển và được phân phối dưới dạng sản phẩm “thô”. Nhưng do sự thay đổi theo mùa và khu vực, sự khác biệt giữa các loài, ô nhiễm sản phẩm với cát và các tạp chất bên ngoài khác, việc sử dụng thức ăn tươi sống Artemia muốn an toàn và hiệu quả đòi hỏi phải có kiến thức và có trách nhiệm hơn. “Nhiều thập kỷ nghiên cứu và phát triển chuyên sâu đã dẫn đến kĩ thuật sản xuất nguồn thức ăn sống tinh vi như ngày nay: sản phẩm được chế biến cẩn thận, cụ thể là các trứng khô sản xuất ra nauplii sống trong vòng 24 giờ sau khi ấp”, Alessandro Moretti - Giám đốc sản phẩm cá giống & Artemia, giải thích, INVE Aquaculture.

Ông nói thêm rằng nhờ vào quá trình xử lý và đánh dấu vượt trội, trứng có thể được đóng gói và dán nhãn theo các đặc điểm cụ thể của chúng như kích thước, khả năng nở và giá trị dinh dưỡng, bất kể chủng hay nguồn gốc của chúng. “Các công nghệ tiên tiến được cấp bằng sáng chế có thể phá vỡ phôi” theo yêu cầu để hiệu quả nở tối ưu, dễ dàng tách vỏ trứng rỗng ra khỏi nauplii sau khi nở và đảm bảo an toàn sinh học, dinh dưỡng của Artemia bằng quy trình cải tiến và làm “giàu” sản phẩm. “Điều này có nghĩa rằng trong 1 điều kiện lý tưởng, các trại giống có thể tạo ra nguồn Artemia phù hợp nhất cho nhu cầu sử dụng của họ, mà không phải sợ bất kỳ kết quả khó lường nào”, Moretti nói.

4. Tình hình hiện tại và các vấn đề

Ngày nay chúng ta đang ở thời điểm mà nguồn Artemia được khai thác hết công suất trong khi vẫn duy trì tốc độ khai thác ổn định. Nguồn cung cấp cho toàn cầu là hơn 3.000 tấn mỗi năm. Đây là vấn đề nút thắt của chính nó. Bởi vì, không giống như ngành nuôi trồng thủy sản toàn cầu, dự kiến ​​sẽ tiếp tục tăng trưởng theo cấp số nhân, nguồn cung cấp Artemia sẽ vẫn ổn định hoặc thậm chí ít hơn so với sản lượng hiện tại.

“Để ngành nuôi trồng thủy sản tiếp tục phát triển bằng nguồn cung cấp Artemia hiện tại, việc sử dụng Artemia phải hiệu quả nhất có thể. Điều này đòi hỏi phải có kiến ​​thức và ứng dụng phù hợp”, Geert Rombaut, Giám đốc R & D, INVE Aquaculture cho biết.

5. Công nghệ được cấp bằng sáng chế trong nuôi trồng thủy sản: thành công hay trở ngại?

Công nghệ mới tiếp tục được nghiên cứu đầu tư đáng kể để cải thiện khả năng quản lý và năng suất của các trại giống và trang trại trên toàn thế giới. Tuy nhiên, để bảo vệ kết quả đầu tư nghiên cứu, các công ty đầu tư vào những cải tiến mới, sẽ được cấp bằng sáng chế công nghệ. Trong một cuộc thảo luận gần đây, khi Benchmark Holdings đã thắng kiện trước tòa án IP & IT ở Bangkok để bảo vệ các bằng sáng chế liên quan đến công nghệ ấp Artemia của mình. Công ty đã truy tố thành công vi phạm công nghệ được cấp bằng sáng chế của mình tại Thái Lan.

Trong trường hợp này, các bằng sáng chế được cấp cho công nghệ INVE đã phá vỡ tình trạng ngủ đông tự nhiên và không thể đoán trước của một số trứng Artemia nhất định. Bằng sáng chế được cấp do việc làm tăng tỷ lệ nở bình thường của trứng khoảng từ 20-40% đến hơn 80% và do đó đã mang lại lợi ích to lớn cho khách hàng và thị trường.

Nguồn: The Artemia paradox. Aquaculture Asia Pacific, May/ June 2019, page 20-22

Người dịch: Kỹ sư Phan Nhật Duy - Công ty Vinhthinh Biostadt

 
Từ khóa: Artemia
Trở về
Thông tin khác

Sản phẩm tiêu biểu

Hỗ trợ trực tuyến

  • Hotline Vinhthinh Biostadt - Thủy Sản Hotline Vinhthinh Biostadt - Thủy Sản Zalo - ĐT: 0912 889 542
  • Hotline Vinhthinh Biostadt- Nông Nghiệp Hotline Vinhthinh Biostadt- Nông Nghiệp Zalo - ĐT: 0915446744

HOTLINE0912.889.542

Các đối tác của chúng tôi