FacebookZaloLinkedinYoutube
FacebookZaloLinkedinYoutube
CLINZEX DIỆN MẠO MỚIDIỆN MẠO MỚICHUỖI CUNG ỨNG VINHTHINH BIOSTADT HƯỚNG ĐẾN PHÁT TRIỂN BỀN VỮNGENVOMIN - AQUAMIN - SUP PREMIX - ECO MINERALESOMAX - HOẠT CHẤT TINH DẦU KHÁNG SINH - GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT BỆNH GAN TỤY VÀ PHÂN TRẮNGRa mắt sản phẩm mới Yucca VTB ZUCCA - QUILA YUCCA - TF ZUCCA - ECO ZUCCAKhoáng tạt cao cấpWOKOZIM TỐI ƯU HÓA MỌI GIẢI PHÁPTHUỐC TRỪ SÂU SINH HỌCuongveoVinhthinhbiostadt20 nam Environ-ACGiống tôm thẻ chân trắng VTBHSản phẩm Nông NghiệpWokozim đã được sử dụng trên 40 loại cây trồng và hơn 20 quốc gia trên thế giớiLiên doanh giữa Vinhthinh & tập đoàn Biostadt -Ấn ĐộVinhthinh Biostadt

Bệnh phân trắng trên tôm và Giải pháp mới nhất (Bài 2)

Trong phạm vi bài 1, chúng tôi đã đề cập đến bệnh phân trắng do ký sinh trùng gregarine gây ra và giải pháp mới nhất về phòng và trị bệnh phân trắng do ký sinh trùng gregarine (Click vào đây để xem bài 1). Trong bài này, chúng ta sẽ tiếp tục tìm hiểu về hội chứng phân trắng do tác động tổng hợp của nhiều nguyên nhân khác

I. Hội chứng phân trắng 
(White Feces Syndrome: WFS)

1. Lịch sử xuất hiện hội chứng phân trắng  tại Việt Nam

Hội chứng phân trắng (White Feces Syndrome ,viết tắt là WFS)  bắt đầu xuất hiện và gây thiệt hại cho nghề nuôi tôm ở Việt Nam từ những năm đầu 2000. Lúc đó các ao nuôi tôm bán thâm canh và thâm canh tôm sú ở miền Trung mặc dù có xử lý nước trước khi cấp vào ao nuôi và cải tạo ao kỹ càng trước vụ nuôi vẫn bị tình trạng tôm đi phân trắng. Dần dần hội chứng phân trắng hiện diện ở các tỉnh nuôi tôm ở miền Tây do mật độ nuôi tăng. Thiệt hại do hội chứng phân trắng ngày càng nặng nề hơn khi nghề nuôi chuyển sang nuôi tôm chân trắng ngày càng thâm canh khắp trên cả nước.

Như đã đề cập ở bài viết trước, hiện tượng tôm đi phân trắng do thức ăn tôm ăn không được tiêu hóa tốt và bị lên men thối trong ruột. Các nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng thành phần giống loài của hệ vi sinh trong đường ruột tôm thay đổi rất đáng kể khi tôm bị phân trắng. Vì vậy, phân chuyển thành màu trắng và có mùi tanh hôi có thể do tác động của giống loài vi sinh bị thay đổi này. Còn về việc thiếu hụt enzyme tiêu hóa, rõ ràng rằng gan tụy, cơ quan tiết dịch tiêu hóa chính của tôm, bị hư hại và suy giảm chức năng tiết dịch.

2. Nguyên nhân gây hội chứng phân trắng (WFS)

Trong thời gian gần đây đã có rất nhiều nghiên cứu được công bố về nguyên nhân của hội chứng phân trắng. Mặc dù các nghiên cứu đều đề cập đến các nguyên nhân đơn lẻ và hầu hết chỉ ở mức độ mô tả mà chưa có thiết kế những nghiên cứu với kết quả có phân tích ý nghĩa về mặt thống kê. Tuy nhiên, với những kết quả nghiên cứu này chúng ta có thể nhận định rằng hội chứng phân trắng  do nhiều nguyên nhân khác nhau. Các nguyên nhân này tựu trung đều gây hư hại gan tụy làm chức năng tiết dịch tiêu hóa của chúng suy giảm. Từ đó thức ăn không được tiêu hóa tốt kéo theo sự thay đổi thành phần vi khuẩn trong đường ruột gây nên phân trắng.

Các nguyên nhân gây bệnh có thể liệt kê gồm:

- Sự phát triển quá mức của tảo trong nước ao

- Sự gia tăng mật độ Vibrio tổng trong nước

- Tôm bị bệnh do vi bào tử trùng EHP

3. Tính nghiêm trọng của hội chứng phân trắng gây ra cho tôm nuôi

Hội chứng phân trắng (WSF) thường xảy ra sớm hơn so với bệnh phân trắng do kí sinh trùng gregarine trên tôm nuôi. Mật độ nuôi càng cao bệnh càng sớm xuất hiện. Thông thường tôm sau khi thả nuôi 1,5- 2 tháng thường sẽ bị phân trắng. Hội chứng phân trắng xảy ra nhiều hơn vào thời gian nhiệt độ cao trong năm (mùa nắng nóng).

Diễn tiến của bệnh khá nhanh. Chỉ sau 3-5 ngày từ lúc một vài dãy phân trắng được phát hiện trong ao, phân trắng nổi đầy trên mặt nước và trong máng (nhá, vó) cho tôm ăn. Tôm bị ốp thân, gan tụy nhạt màu và chất chứa trong ruột có màu trắng là những biểu hiện quan trọng của tôm bệnh. Tôm chết kéo dài với tỷ lệ chết có thể lên đến 30 - 40 %.

4. Lý giải cách tác động trực tiếp và gián tiếp từ các nguyên nhân ban đầu dẫn đến hình thành bệnh phân trắng

Sau 1,5 – 2 tháng nuôi, nước trong ao thường bị phú dưỡng chủ yếu do hàm lượng chất hữu cơ có nguồn gốc từ thức ăn tôm dư thừa. vi khuẩn có hại Vibrio trong ước ao sẽ gia tăng nhanh chóng số lượng trong đó có nhiều loài vi khuẩn Vibrio cơ hội gây bệnh cho tôm. Thức ăn không được tiêu thụ sẽ bị vi khuẩn trong ao phân hủy tạo khí độc như NH3 và H2S. Chất lượng nước suy giảm làm cho tôm bị stress và giảm sức đề kháng.  Đây là điều kiện thích hợp cho vi khuẩn Vibrio cơ hội xâm nhiễm cơ thể tôm hoặc thậm chí vi khuẩn Vibrio hiện diện sẵn trong cơ thể tôm gia tăng số lượng và gây bệnh.

Vi khuẩn Vibrio cơ hội không có độc lực cao nhưng với số lượng lớn vẫn có thể gây bệnh cho tôm mặc dầu diễn tiến của bệnh có phần chậm hơn so với bệnh hoại tử gan tụy cấp tính. Gan tụy là một trong những cơ quan bị Vibrio xâm nhiễm và gây viêm. Các tế bào biểu mô ống gan tụy bị hư hại từ mức độ ban đầu là suy giảm chức năng đến giai đoạn cuối cùng là hoại tử và bong tróc khỏi thành ống gan tụy. Tế bào B giảm tiết dịch tiêu hóa và tế bào R giảm khả năng dự trữ chất béo hấp thụ được từ ruột. Dịch tiêu hóa bị thiếu hụt sẽ dẫn đến tình trạng thức ăn trong ruột không được tiêu hóa tốt. Như vậy tình trạng tôm đi phân trắng sẽ xảy ra.

Cùng với tình trạng phú dưỡng của nước trong ao do dư thừa thức ăn tôm, tảo trong ao sẽ phát triển rất nhanh đặc biệt là tảo lam. Màu nước ao chuyển sang xanh đậm. Tôm sẽ tiêu thụ tảo này một cách thụ động trong quá trình bắt mồi. Khi tảo tàn, xác tảo lắng tụ đáy ao sẽ bị phân hủy bởi vi khuẩn trong nước. Mật độ vi khuẩn, đặc biệt là vi khuẩn Vibrio trong xác tảo tăng nhanh. Tôm chân trắng ăn tảo tàn hay tiêu thụ thụ động tảo trong nước sẽ hấp thu độc tố có trong tảo. Độc tố của tảo đặc biệt là tảo lam có khả năng làm hư hại và suy giảm chức năng của gan tụy. Ngoài ra tôm cũng có thể bị ảnh hưởng từ số lượng vi khuẩn Vibrio trong xác tảo chết và bị hư hại gan tụy như đã đề cập ở trên. Gan tụy hư hại ngày càng nặng hơn và sẽ dẫn đến tôm đi phân trắng.
 

 
Một nguyên nhân khác nữa được cho là có liên quan đến hội chứng phân trắng (WSF) được nhiều nghiên cứu gần đây trên tôm chân trắng là vi bào tử trùng (Entercytozoon hepatopenaei viết tắt là EHP). Tôm nhiễm vi bào tử trùng EHP bị chậm lớn sau 1 – 1,5 tháng sau khi thả nuôi. EHP chủ yếu nhiễm trên gan tụy tôm, trong đó đặc biệt là các tế bào biểu mô ống gan tụy.  Các tế bào biểu mô ống gan tụy như tế bào B bị EHP ký sinh nội bào sẽ bị hoại tử, bong tróc khỏi thành và rơi vào lòng ống gan tụy. Do đó, sự thiếu hụt enzyme tiêu hóa do tế bào B tiết ra sẽ ảnh hưởng đến sự tiêu hóa thức ăn trong ruột. Diễn tiến bệnh kéo dài sẽ đưa đến tôm đi phân trắng. Dĩ nhiên trong diễn tiến của EHP, vai trò góp phần làm viêm bội nhiễm và hoại tử gan tụy do vi khuẩn Vibrio cơ hội cũng cần được nhận diện một cách đầy đủ.

5. Chẩn đoán bệnh

Khi kiểm tra bằng kính hiển vi đặc điểm mô bệnh học của hội chứng phân trắng (WSF), các nghiên cứu chỉ ra sự hiện diện của vermiform trong lòng ống gan tụy và lòng ruột. Vermiform là thuật ngữ khoa học tiếng Anh được cấu thành từ từ gốc tiếng Latin gồm vermes có nghĩa là giun và formes là được tạo thành dạng.  Như vậy vermiform là vật thể có hình dạng giống như giun mà không phải là một sinh vật, đó không phải là ký sinh trùng như một số tài liệu trong nước trước đây đã đề cập đến. Do sự hiểu lầm này mà nhiều sản phẩm được sản xuất và sử dụng với mục đích là “xổ nội  ký sinh vermiform” cho tôm nuôi. Nghiên cứu mô tả vermiform được hình thành do sự tróc ra, chuyển dạng và cuộn lại của các vi nhung mao (microvilli) của tế bào biểu mô ống gan tụy (Aggregated Transformed Microvilli: ATM). Bên trong ATM có chứa vật thể giống cấu trúc nang bào tử về sau này được xác định là tế bào biểu mô gan tụy bị hoại tử và bong tróc. Từ gan tụy thể vermiform sẽ xuống ruột và tích tụ dày đặc ở đó. Khi quan sát dưới kính hiển vi, vermiform có hình dạng, kích cỡ và màu sắc khá tương đồng với kí sinh trùng gregarine. Tuy nhiên vermiform không có cấu trúc nhân tế bào và bộ phận bám E (Epimerite) như kí sinh trùng gregarine.

Người nuôi có thể quan sát thấy rất nhiều dãy phân trắng nổi trên mặt nước ao hay tụ lại trong máng (nhá, vó) cho tôm ăn. Quan sát mẫu gan tụy hay chất chứa đường ruột ép mỏng dưới kính hiển vi ở độ phóng đại 100 – 400 lần có thể thấy rõ sự hiện diện của thể vermiform.
 
 
II. Các biện pháp người nuôi thường áp dụng để điều trị hội chứng phân trắng

Thông thường, người nuôi tôm không xác định chính xác được tôm bị phân trắng do ký sinh trùng gregarine hay do vi khuẩn vibrio cơ hội gây ra hoặc do các bệnh liên quan khác ảnh hưởng đến tôm gây nên hội chứng phân trắng. Do đó, khi thấy phân trắng người dân sẽ áp dụng mọi biện pháp mình biết để điều trị, không tìm hiểu đúng nguyên nhân để sử dụng phác đồ hiệu quả và xử lý triệt để gốc rễ. Sau đây là một số biện pháp người nuôi hay sử dụng:

1. Điều trị phân trắng bằng kháng sinh: thường không có hiệu quả. Kháng sinh chỉ ức chế vi khuẩn Vibrio nên trong thời gian điều trị nếu tôm còn bắt mồi thì hiện tượng phân trắng có thể giảm. Tuy nhiên, khi ngưng cấp kháng sinh, Vibrio luôn tồn tại trong nước và cơ thể tôm lại tiếp tục xâm nhiễm, tăng sinh và gây bệnh. Sau một thời gian điều trị đa số tôm sẽ bị ốp thân, gan tụy teo nhỏ và gần như không tăng trưởng. Do vậy người nuôi chỉ còn cách lựa chọn là dừng tiếp tục vụ nuôi.

2. Điều trị phân trắng bằng thảo dược tự nhiên như tỏi tươi, lá ổi, cây chó đẻ,…: Như đã để cập ở bài 1, bệnh phân trắng vẫn sẽ tiếp tục tái phát do mầm bệnh vẫn còn trong môi trường.

3. Điều trị phân trắng bằng các sản phẩm của các công ty dùng cho tôm: Hiện nay, trên thị trường có rất nhiều sản phẩm được tư vấn phòng và trị bệnh phân trắng. Người nuôi cần phải tìm hiểu rõ nguồn gốc, chất lượng và uy tín Công ty sản xuất sản phẩm trước khi sử dụng.

Với tất cả những biện pháp trên, người nuôi sử dụng theo hướng hên xui. Đúng tình huống thì hết bệnh, không đúng thì thay đổi liệu trình khác. Chính vì phương pháp chữa trị không rõ nguyên nhân gốc rễ đã dẫn đến tình trạng tôm bị phân trắng nặng và không thể giải quyết được nữa. Kết quả, người nuôi phải kết thúc vụ nuôi sớm và tôm mất giá do tình trạng ốp, màu sắc xấu, tồn lưu kháng sinh,…

Vì những lý do trên, Vinhthinh Biostadt khuyến cáo người nuôi nên thường xuyên kiểm tra tôm định kỳ tại các phòng lab của Vinhthinh Biostadt hoặc tại các Đại lý phân phối thuốc Vinhthinh Biostadt. Thay vì trước đây chỉ kiểm tra nước ao nuôi, người nuôi nên xét nghiệm cả tôm để phòng bệnh sớm ngay từ đầu. Đội ngũ kỹ sư của Vinhthinh Biostadt có phục vụ xét nghiệm tại ao nuôi, người nuôi có thể liên hệ kỹ sư tại khu vực để được hướng dẫn.

 
 
III. Giải pháp phòng bệnh phân trắng mới nhất từ Vinhthinh Biostadt

Phòng bệnh phân trắng vẫn là cách giải quyết căn cơ cho hội chứng phân trắng (WFS). Như đã phân tích ở trên có nhiều nguyên nhân gây ra hội chứng phân trắng, từ mật độ vi khuẩn Vibrio cao trong nước ao, tảo lam và vi bào tử trùng EHP. Rõ ràng rằng biện pháp phòng bệnh tổng hợp phải được thực hiện từ khâu đầu tiên chuẩn bị ao, thả tôm giống cho đến quản lý chăm sóc suốt quá trình nuôi.

1. Các nguyên tắc chung nhất trong phòng bệnh bao gồm:

Ngăn chặn mầm bệnh vào hệ thống nuôi và ngăn chặn tác nhân gây bệnh tăng số lượng: chuẩn bị ao thật kỹ để diệt mầm bệnh tồn lưu, chọn tôm giống từ những Công ty uy tín để ngăn vật chủ trung gian mang mầm bệnh EHP vào ao, lọc và xử lý nước bằng hóa chất sát khuẩn trước khi cấp vào ao, diệt khuẩn trong ao nếu mật độ quá cao

Tăng cường sức đề kháng của tôm: kiểm soát các nguyên nhân có thể gây tôm stress, bổ sung vi sinh có lợi cho đường ruột,bổ sung thêm thành phần beta - 1,3 glucans cho tôm qua cho ăn nhằm kích hoạt cơ chế đáp ứng miễn dịch không đặc hiệu của tôm chống lại các mầm bệnh.

Cải thiện chất lượng nước: Áp dụng mô hình ương và nuôi nhiều giai đoạn để giảm ô nhiễm, mật độ thả tôm phù hợp cho mỗi giai đoạn ương và nuôi, đặc biệt kiểm soát hạn chế thức ăn dư thừa, sử dụng chế phẩm vi sinh nhằm khử khí độc, phân giải chất hữu cơ tích tụ trong ao.

2. Các biện pháp cụ thể từng giai đoạn bao gồm:

a. Áp dụng mô hình ương vèo và nuôi 3 giải đoạn của Vinhthinh Biostadt

Vì mục tiêu chính của mô hình này là phòng bệnh, bảo vệ tôm trong 60 ngày nuôi đầu tiên. Việc chuyển giai đoạn (sang ao) sẽ góp phần giảm ô nhiễm hữu cơ tích lũy, cắt mầm bệnh, đi với  việc thúc đẩy tôm lớn nhanh hơn do đặc tính tăng trưởng bù của tôm thẻ chân trắng.

 
 
Mô hình ương vèo và nuôi 3 giai đoạn của Vinhthinh Biostadt

b. Chọn tôm giống:

Chọn tôm giống từ các Công ty uy tín, qui mô lớn, đầu tư bài bản. Người nuôi nên chọn các Công ty sản xuất tôm giống có chứng nhận cơ sở an toàn dịch bệnh động vật” của cơ quan Thú Y Nhà nước cấp (Để đạt được chứng nhận này, các công ty đã trải qua 24 tháng  lấy mẫu xét nghiệm liên tục với tần suất cao và đảm bảo tất cả mẫu đều cho kết quả âm tính đối với 3 loại bệnh là: Đốm trắng do vi rút (WSD), hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND) và hoại tử cơ quan tạo máu và biểu mô (IHHNV)). Chứng nhận này cũng thể hiện đơn vị được cấp chứng nhận có năng lực về phần cứng (cơ sở hạ tầng và trang thiết bị), quy hoạch khu vực sản xuất và quản lý chuyên nghiệp để trại giống có tính an toàn sinh học cao.
 


 
c. Cải tạo ao:

- Trang thiết bị trong trại cần được tiệt trùng đầy đủ trước khi bắt đầu vụ nuôi mới. Đối với trại nuôi thâm canh sử dụng bể xi măng hay lót bạt HDPE, bề mặt bể, ống dẫn khí, đá bọt và tất cả dụng cụ phải được rửa và ngâm trong dung dịch sát khuẩn trong 3-5 giờ. Thực hiện bằng cách: Pha 1 lít Aqua Omnicide với 100 lít nước sạch, dùng để ngâm các dụng cụ có kích thước nhỏ. Đối với bạt, bể xi măng,… có thể phun xịt lên bề mặt để xử lý mầm bệnh.

- Đặc biệt, các ao nuôi đã từng có tiền sử bị bệnh chậm lớn do vi bào tử trùng EHP, cần phải lưu ý cải tạo kỹ trước khi lấy nước cấp vào ao.

- Diệt khuẩn nước bằng FANTAI TCCA 90% hoặc CHITA TCCA 10 ppm, nhằm tiêu diệt ký chủ trung gian, mầm bệnh do vi khuẩn, virus gây ra.

- Sau 5 ngày có thể cấy lại vi sinh có lợi với liều gấp đôi liều khuyến cáo.

- Cần thực hiện các biện pháp nâng kiềm, gây màu, ổn định chất lượng nước trước khi thả tôm.

 
 
d.Trong quá trình nuôi:

-  Quản lý chất lượng nước:

Quản lý chất lượng nước có thể hiểu đơn giảm là làm cho các chất độc hại trong nước ở dưới ngưỡng gây hại cho tôm cũng như giảm đến mức tối thiểu biến động chất lượng nước.
Để làm được điều này quan trọng là quản lý hiệu quả việc cho ăn, hạn chế tối đa việc để thức ăn dư thừa trong ao. Việc duy trì hàm lượng O2 hòa tan trong nước cao giúp oxid hóa phân hủy chất hữu cơ theo hướng hiếu khí tạo sản phẩm không gây độc cho tôm. Thêm vào đó việc hút được các chất tích tụ nền đáy thông qua thiết kế xiphon đáy ao cũng là phương cách giữ cho môi trường nước không bị ô nhiễm.

Việc thay nước sẽ giúp làm giảm thấp chất hữu cơ và chất độc trong nước.

Việc duy trì quần thể tảo có lợi phát triển ở mức vừa phải và ổn định sẽ giúp hấp thụ bớt các chất độc hại trong nước.

Bổ sung vi khuẩn có lợi vào ao giúp ổn định được quần thể vi khuẩn có lợi trong nước qua đó thúc đẩy được sự chuyển hóa các chất độc hại trong nước thành chất không độc.
 

Lưu ý: Khi vi khuẩn vibrio trong nước cao hơn giới hạn cho phép (>1.000 cfu/ml) thì nên diệt khuẩn bằng AQUA OMNICIDE 1 lít/ 2.000 m3 nước, tạt buổi sáng. Cấy lại vi sinh sau 48 giờ diệt khuẩn

Quản lý sức khỏe đường ruột:

Hệ vi sinh đường ruột đóng góp vai trò quan trọng trong phòng bệnh hội chứng phân trắng. Trong quá trình nuôi cần cung cấp qua thức ăn các vi khuẩn có lợi, bổ sung acid hữu cơ, các thảo dược chiết xuất từ thực vật. Việc bổ sung các thành phần này tạo tác động hiệp lực trong kích thích sự phát triển vi khuẩn có lợi và ức chế các vi khuẩn có hại trong đường ruột.
 
Quản lý thức ăn:

Cho tôm ăn nhiều hơn khả năng bắt mồi của tôm là một trong những nguyên nhân chính làm giảm chất lượng nước. Thức ăn dư thừa sẽ làm tăng tích tụ chất hữu cơ trong nước và giảm sức tải của ao. Nền đáy ô nhiễm do thức ăn thừa sẽ là nguồn dinh dưỡng cho vi sinh vật phát triển, trong đó có nhiều vi khuẩn Vibrio gây bệnh cơ hội, và phân hủy tạo thành khí độc NH3, H2S. Vi khuẩn hoạt động cần nhiều O2 nên sẽ làm giảm O2 hòa tan trong nước giảm đưa đến tăng tỷ lệ tôm chết và tăng FCR. Ngoài ra sản phẩm phân hủy chất hữu cơ do vi sinh vật sẽ là nguồn dinh dưỡng cho tảo phát triển. Sau một thời gian tảo mà đặc biệt là tảo lam, phát triển dày đặc. Lượng thức ăn tôm ăn ở nhiệt độ 30 oC nên được sử dụng như là lượng thức ăn chuẩn cho tôm ăn khi nhiệt độ nước >32 oC. Ở nhiệt độ nước cao này tôm sẽ bắt mồi nhanh hơn và bắt mồi với số lượng nhiều hơn. Nếu cho tôm ăn thêm sẽ dẫn đến cho tôm ăn quá mức, theo đó chất lượng nước sẽ suy giảm do thức ăn dư thừa.

Trong quá trình nuôi nên kiểm tra đáy ao thường xuyên, thường nên làm 1 – 2/tuần. Kiểm tra trực tiếp bùn đáy ao quanh khu vực cho tôm ăn để đánh giá mức độ ô nhiễm. Kiểm tra chất tích tụ tại vị trí thấp nhất trong ao nhằm đánh giá mức độ tích lũy chất hữu cơ. Hút khỏi ao các chất tích tụ là việc phải thực hiện thường xuyên

 
 

3. Giải pháp đặc trị bệnh phân trắng
 



Một số vấn đề cần lưu ý thêm:

- Không sử dụng các sản phẩm áo thức ăn trong quá trình điều trị phân trắng.

- Để tăng nhanh hiệu quả điều trị, bổ sung thêm nhóm axit hữu cơ MERACID (hoặc ACIDO) liều 10g/kg thức ăn. Trộn chung cử sáng với chế phẩm thảo dược tổng hợp.

- Sau 7 ngày điều trị phân trắng, cần bổ sung sản phẩm hỗ trợ chức năng gan AMINO 200 (hoặc MIVITA hoặc NUTEX hoặc HUFA POWER) với liều 10ml/kg thức ăn, cho ăn 1 cử/ngày nhằm tăng cường và phục hồi chức năng gan tụy.

 



Nguồn: Tiến sĩ Nguyễn Hữu Thịnh - Chuyên gia bệnh học Thủy sản

Xem thêm Bài 1 - Bệnh phân trắng do ký sinh trùng và giải pháp tại link: 
http://vinhthinhbiostadt.com/vi/ung-dung-san-pham/benh-phan-trang-tren-tom-va-giai-phap-moi-nhat-p1-294.html



 

Trở về
Thông tin khác

Sản phẩm tiêu biểu

Hỗ trợ trực tuyến

  • Hotline Vinhthinh Biostadt - Thủy Sản Hotline Vinhthinh Biostadt - Thủy Sản Zalo - ĐT: 0912 889 542
  • Hotline Vinhthinh Biostadt- Nông Nghiệp Hotline Vinhthinh Biostadt- Nông Nghiệp Zalo - ĐT: 0915446744

HOTLINE0912.889.542

Các đối tác của chúng tôi