FacebookZaloLinkedinYoutube
FacebookZaloLinkedinYoutube
CHUỖI CUNG ỨNG VINHTHINH BIOSTADT HƯỚNG ĐẾN PHÁT TRIỂN BỀN VỮNGBIO BL RACEWAYMAGKA POWERCANMAGKHOÁNG TẠT VI SINHMIZUPHOR POWERCLINZEX DIỆN MẠO MỚIDIỆN MẠO MỚIESOMAX - HOẠT CHẤT TINH DẦU KHÁNG SINH - GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT BỆNH GAN TỤY VÀ PHÂN TRẮNGFANTAI TCCA - CHITA TCCAGiống tôm thẻ chân trắng VTBHWOKOZIM TỐI ƯU HÓA MỌI GIẢI PHÁPTHUỐC TRỪ SÂU SINH HỌCSản phẩm Nông NghiệpWokozim đã được sử dụng trên 40 loại cây trồng và hơn 20 quốc gia trên thế giớiLiên doanh giữa Vinhthinh & tập đoàn Biostadt -Ấn ĐộVinhthinh Biostadt
Trang chủ Trang chủTin tứcSẢN XUẤT GIỐNG CÁ, TÔMLiệu có thể thay thế hoàn toàn Artemia trong sản xuất giống? (Phần 1)

Liệu có thể thay thế hoàn toàn Artemia trong sản xuất giống? (Phần 1)

Phần 1: Nguồn cung cấp giới hạn artemia có khả năng gây cản trở sự tăng trưởng của ngành nuôi thủy sản

Những mục tiêu tăng vọt của ngành thủy sản sẽ tạo sức ép to lớn lên nguồn cung Artemia nếu vẫn chưa phá vỡ được thế phụ thuộc vào nguồn cung tự nhiên này. Đó không phải Artemia mà là những thành phần dinh dưỡng giá trị quá cao của Artemia đối với nuôi thủy sản.

Artemia là thức ăn hàng đầu cho giai đoạn ấu trùng của nhiều loại tôm cá nuôi thương mại trên thế giới. Nhu cầu gia tăng toàn cầu của Artemia, có thể làm cho nguồn cung thiếu hụt, trở thành trở ngại cho tăng trưởng của ngành thủy sản trong tương lai. Một nguồn cung dựa vào khai thác trên những quần thể hoang dã là không ổn định, chịu ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như thay đổi các điều kiện môi trường. Ví dụ như có nhiều hiện tượng tự nhiên ảnh hưởng đến thu hoạch artemia từ Great Salt Lake (GSL, bang Utah, USA), là nơi cung cấp khoảng một phần ba đến một nửa nguồn cung Artemia toàn cầu. Mực nước và độ mặn dao động trong hồ có liên quan đến một vài trong số những bất thường khi thu hoạch.

Độ mặn cao gây stress lên Artemia và hạn chế sự sinh sản trong khi độ mặn thấp lại gây khó khăn cho thu hoạch do làm suy giảm sức khỏe của cyst (bào xác - từ chuyên môn, một giai đoạn ở trạng thái nghĩ của Artemia). Những thay đổi này trong môi trường làm ảnh hưởng đến chuỗi thức ăn tự nhiên mà Artemia phụ thuộc vào. Những thay đổi trong quần thể tảo (thấy rõ khi tảo độc bùng phát) và mực nước hạ thấp trong hồ được xem như yếu tố hạn chế quần thể Artmia, dẫn đến suy giảm rõ rệt nguồn cung cyst cho toàn cầu. Ngành công nghiệp thủy sản tiếp tục chứng kiến sự dao động đáng kể của nguồn cung và giá Artemia.

Nhiều tác giả dự đoán lượng tăng thêm nhu cầu thủy sản của thế giới trong hai thập kỷ tới sẽ gấp đôi sản lượng hàng năm hiện tại khoảng 80 triệu tấn. Một báo cáo mới của Ngân Hàng Thế Giới (Kobayashi và cộng sự, 2015) dự đoán nguồn cung thủy sản toàn cầu sẽ tăng từ 154 triệu tấn năm 2011 lên 186 triệu tấn năm 2030. Hầu hết lượng tăng này đều đến từ sự tăng trưởng của ngành nuôi thủy sản. Sự tăng trưởng nhanh nhất dự đoán đến từ cá rô phi và tôm (trên 90%), khu vực phát triển rộng nhất dự đoán ở Ấn Độ, Châu Mỹ La Tinh, Vùng Caribe và Đông Nam Á, là những khu vực chính của ngành nuôi tôm. Artemia, hoặc khác hơn, nguồn dinh dưỡng đến từ Artemia cung cấp cho ấu trùng tôm, trở nên thiết yếu cho sự sản xuất tôm giống.

Sản xuất Artemia toàn cầu trong 15 năm qua rất biến động. Có ba khu vực sản xuất Artemia chính trên thế giới; GSL, các nước khác nhau trong Cộng Đồng Các Quốc Gia Độc Lập (CIS – Commonwealth of Independent States) và Trung Quốc. Theo Litvinenko và cộng sự, sản lượng toàn cầu Artemia trong những năm gần đây nằm giữa 3 000 và 4 000 tấn mỗi năm. Đến từ GSL là 1 000 – 2 000 tấn; từ Nga 550 tấn, từ Kazakhstan, 20 tấn, từ Uzbekistan, 20 tấn; từ Trung Quốc (vịnh Bohai, Mông Cổ, Aibi, Balikun và những vùng khác), 900 tấn; Việt Nam, 20 tấn; và những quốc gia khác (Thái Lan, Argentina, Brazil và những ao hồ nước mặn khác trên thế giới) góp khoảng 60 tấn. Vì vậy, ba trung tâm lớn nhất sản xuất Artemia là GSL, vùng Tây Siberia kết hợp Kazakhstan và Trung Quốc.

Khai thác tự nhiên cũng có thể đến từ vài khu vực như Crimea. Nhưng đầu tư khai thác nguồn lợi tự nhiên như Artemia có thể không phải giải pháp lâu dài, khả thi để hỗ trợ cho tương lai phát triển của ngành thủy sản. Đã có những bằng chứng cho thấy việc khai thác quần thể này có thể mang lai tác động xấu. Ví dụ một nghiên cứu vừa rồi bởi Sura và Beloxsky (2016) trên trứng nghĩ của Artemia franciscana tại GSL để đánh giá xem liệu khai thác một cách có lựa chọn có thể gây ra thay đổi tiến hóa trên quần thể thông qua những thay đổi đặc tính kiểu hình, đặc biệt là thay đổi trong quá trình sống. Nghiên cứu trên nang thu hoạch từ 1991 – 2011, nhóm tác giả báo cáo rằng sức khỏe của trứng nghĩ suy giảm và tỷ lệ chết của nauplii tăng theo thời gian. Nhóm tác giả kết luận rằng thu hoạch trứng nghĩ của A.franciscana (một loại Artemia) trong GSL đang gây ra những thay đổi về tiến hóa, sự thay đổi này ảnh hưởng đến quá trình thu hoạch bền vững và quản lý bền vững nguồn sản xuất trong tương lai. Những phát hiện trên là tại GSL, nơi được tin là quản lý nguồn Artemia tốt nhất trên thế giới. Những nguồn khác trên thế giới được biết là không có những hệ thống thu hoạch được quản lý kỹ càng như ở GSL, và cả những lo lắng về khai thác trộm, trái phép  ở những nơi khác. Các yếu tố này làm ảnh hưởng đến sự bền vững và sự bào đảm trong nguồn cung Artemia toàn cầu.

Tình hình cung cấp Artemia hiện nay rất giống với tình hình cung cấp bột cá và dầu cá vài năm trước. Sự tăng trưởng ngành nuôi thủy sản tỷ lệ thuận với gia tăng sự sử dụng bột cá và dầu cá, chủ yếu sản xuất từ ngành đánh bắt đang suy giảm. Vì cả hai bột cá và dầu cá đã đạt ngưỡng bền vững tối đa nhiều năm về trước, nên những giải pháp thay thế cố gắng mở rộng việc sử dụng bột và dầu thực vật cũng như các loại động vật trên cạn. Ngành công nghiệp thức ăn thủy sản đã có những chuyển biến và tiến triển, từ việc sử dụng các nguồn nguyên liệu từ biển, chủ yếu dựa vào đánh bắt và luôn bị giới hạn, mùa vụ,…, sang sử dụng các nguồn nguyên liệu trên cạn, các phụ phẩm trang trại hay phụ phẩm công nghiệp (sản xuất có kiểm soát, bền vững và được chứng nhận). Những chuyển biến và tiến triển đó cũng có thể xảy ra đối với Artemia. Đối với một ngành công nghiệp thủy sản phát triển nhanh chóng, nhu cầu Artemia sẽ vượt quá nguồn cung, những giải pháp thay thế phải được khai thác. Có thể sản xuất Artemia trên đất liền? Có thể, và đã có rất nhiều cố gắng, thường kết hợp với sản xuất vài loại vi tảo như Dunaliellasalina. Tuy nhiên, cho tới hiện nay việc sản xuất quy mô lớn vẫn không thành công và giải pháp thay thế Artemia vẫn còn rất thiết yếu.

Phát triển khẩu phần thay thế

Bên cạnh việc phát triển một khẩu phần thay thế Artemia trong các trại tôm giống thì quan trọng không kém là hiểu rõ cách dùng Artemia ở từng nơi khác nhau trên thế giới. Ở Đông Hemisphere, Artemia mới nở được cho ăn theo cách truyền thống là quan sát dưới kính hiển vi lượng thức ăn còn trong nước. Quan sát dưới kính hiển vi hiện nay không được sử dụng rộng rãi. Cũng như vậy, các bể ấu trùng thường có đáy bằng và mức độ sục khí thấp, nên thức ăn tổng hợp muốn lơ lửng rất khó. Do đó, ở đây rất phụ thuộc vào Artemia sống vì nó dễ nhìn thấy và dễ lơ lửng trong nước.

Ở Tây Hemisphere, thức ăn tổng hợp được dùng nhiều hơn một cách đáng kể. Khi cho ăn thường dựa trên quan sát kính hiển vi trên động vật hơn là quan sát trong cột nước. Các bể nuôi ấu trùng thì có đáy hình parabol, sục khí mức độ cao ở trung tâm làm cho thức ăn ở dạng lơ lửng và giảm sự phụ thuộc vào thức ăn sống.

Hầu hết trứng nghĩ của Artemia được dùng trong sản xuất tôm thẻ (Litopenaeus vannamei) và tôm sú (Penaeus monodon), mỗi loài có đặc tính bắt mồi khác nhau. P.monodon, cho tới giai đoạn hậu ấu trùng 20 (PL20), chủ yếu ăn tầng mặt của cột nước. Tôm sú chủ yếu được nuôi trong bể đáy bằng và không hiệu quả khi cho ăn tầng đáy, nên rất khó khăn cho ăn thức ăn khô cho tới khi thu hoạch. Nó chỉ có thể ăn những gì có trong cột nước trong một bể đáy bằng. Dùng 5 - 10 kg cyst Artemia tỷ lệ nở 80%cho mỗi cho 1 triệu hậu ấu trùng.

Litopenaeus vannamei ăn trên mặt cho tới hậu ấu trùng giai đoạn 5 (PL5), sau đó trở nên ăn đáy từ PL6 đến thu hoạch, do đó ăn được thức ăn tổng hợp và giảm lượng Artemia cần thiết. Tôm thẻ chủ yếu được nuôi trong bể đáy parabol cho tới PL5. Sau PL5, Artemia không còn dùng cho ăn nữa. và tôm thẻ được cho ăn đáy với thức ăn chìm, nặng hơn cũng như cyst Artemia được phá lớp vỏ ngoài hoặc Artemia sinh khối. Thường dùng 1 – 5 kg Artemia 80% tỷ lệ nở cho sản xuất 1 triệu hậu ấu trùng L.vannamei.

Sự thay thế Artemia

Chúng tôi sớm khẳng định rằng có giải pháp thay thế tốt hơn để đáp ứng một cách bền vững nhu cầu dinh dưỡng trong sản xuất hậu ấu trùng cho tôm. Nhận thức rõ những giới hạn và nguy cơ an toàn sinh học của thức ăn sống, công ty chúng tôi đã phát triển thương mại một khẩu phần thay thế Artemia hiệu quả về mặt chi phí.

Artemia có rất nhiều lợi thế nhưng cũng có những bất lợi đáng kể. Biến động chi phí lớn, thỉnh thoảng nguồn cung thiếu hụt, giá trị dinh dưỡng và tỷ lệ nở là những lo lắng ngày càng lớn. Ngoài ra, Artemia còn là một vật chủ trung gian truyền bệnh, đặc biệt là nhiễm Vibrio, làm gia tăng các vấn đề về an toàn sinh học. Ví dụ như vi bào tử trùng gây bệnh EHP, Enterocytozoon hepatopenaei, đã xác định có trong quần thể Artemia. Ấp nở và nuôi Artemia cần nguồn lực đáng kể về cơ sở hạ tầng, nhân công và thơi gian, những chi phí này thường bị bỏ qua khi tính chi phí sử dụng trứng artemi.

Ngược lại, một khẩu phần thay thế hoàn toàn Artemia bằng thức ăn nhân tạo có nhiều ưu điểm. Thức ăn nhân tạo có thể được sản xuất với hàm lượng dinh dưỡng ổn định có thể bằng hoặc tốt hơn nauplii Artemia. Thức ăn nhân tạo cũng có thể chứng nhận không mang mầm bệnh giảm thiểu các nguy cơ đe dọa an toàn sinh học. Các khẩu phần nhân tạo luôn sẵn có và có chất lượng ổn định. Sẽ không có vấn đề về tỷ lệ nở hay còn vỏ, còn nang chưa nở trong sản phẩm, và không cần cơ sở hạ tầng hay chi phí biến động trong trại giống. Thức ăn nhân tạo cũng có thể dùng để đưa thêm chất kích thích miễn dịch, enzyme và những chất có lợi khác, cũng như probiotic để tăng cường tiêu hóa, cải thiệt chất lượng nước, chất lượng sức khỏe. Trên tất cả, dùng một sản phẩm nhân tạo, an toàn sinh học, giúp cung cấp đủ nhu cầu dinh dưỡng, có thể sản xuất theo nhu cầu, giúp lên kế hoạch, dự đoán sản lượng, công tác điều hành tốt hơn trong khi vẫn giảm thiểu các rủi ro.

Thay thế 100% Artemia là công việc của gần 20 năm kinh nghiệm và vẫn liên tục cải tiến. Đó là loại thức ăn dạng lỏng, gần như lơ lửng trong nước và được lập công thức để cung cấp dinh dưỡng ngang với Artemia chất lượng cao đã được làm giàu với axit béo không bão hòa (HUFA). Được thiết kế để thay thế hoàn toàn nang Artemia tới 100% tùy vào tình hình. Thành phần dinh dưỡng là tối ưu cho tôm Post Larva; tính trên trọng lượng khô là 52% protein, 17% chất béo; còn tính trên trọng lượng dạng lỏng là 14% protein và 4 – 5% chất béo. Thức ăn có hai kích cỡ: loại 50 – 200 micron cho Zoea, Mysis và hậu ấu trùng tới PL2; loại 300 – 500 micron cho PL2 tới PL12. Khẩu phần thay thế này cung cấp hàm lượng dinh dưỡng ổn định và không tốn cho phí ấp nở hay sát khuẩn Artemia. Chi phí thì thấp hơn rất nhiều so với trứng Artemia . Ngoài ra, thức ăn này còn được chứng minh là kéo dài thời gian vận chuyển tôm giống do giữ được chất lượng nước tốt và duy trì lượng oxy hòa tan.

Thức ăn lỏng cho ấu trùng tôm có nhiều lợi ích khi so sánh với các sản phẩm khác ở dạng khô, vì thức ăn đã được vi bọc, sản xuất theo quy trình lạnh để bảo vệ các thành phần nhạy cảm (enzyme, axit béo, màu sắc,…) khỏi bị phá hủy bởi nhiệt độ. Thức ăn mang cấu trúc bán lỏng, rất bắt mồi, kích thích ăn, và ổn định trong nước cũng như giảm đáng kể thất thoát gây ô nhiễm nước nuôi.

Phần tiếp theo: phần hai của bài này sẽ tập trung vào kết quả các thử nghiệm thực tế tại trại giống và tại ao trong những điều kiện nuôi thương mại cũng như những dự đoán cho nguồn cung quan trọng này. 

Tham khảo

Kobayashi, M., Msangi, S., Batka,M., Vannuccini, S., Dey, M.M. and Anderson, J.L. 2015. Fish to 2030: The Role and Opportunity for Aquaculture. Aquaculture Economics & Management Vol. 19, Issue 3, 2015.

Litvinenko, L.I., Litvinenko, A.I., Boiko, E.G. and Kutsanov, K. 2015. Artemia cyst production in Russia. Chin. J. Oceanol. Limnol., 33(6): 1436-1450.
Sura, S.A and Belovsky, G.E. 2016. Impacts of harvesting on brine shrimp (Artemia franciscana) in GSL. Ecol Appl. 2016 Mar;26(2):407-14.

Tác giả: Craig Browdy, Peter Van Wyk, Chris Stock, Diego Flores and Ramir Lee

Craig Browdy - 
Giám đốc BP Research & Development (nghiên cứu và phát triển) 
Peter Van Wyk - Giám đốc kỹ thuật
Chris Stock - Giám đốc kinh doanh
Diego Flores -  Chuyên viên kỹ thuật  BP thức ăn cho trại giống.
Ramir Lee - 
Chuyên viên kỹ thuật  BP thức ăn cho trại giống.

Tất cả các tác giả là nhân sự của Zeigler Bros., Inc. USA.
 
Nguồn: AQUA Culture Asia Pacific Magazine - March/April 2017

Dịch bởi: KS Trần Đình Ân - GD BPKD Sản phẩm dành cho sản xuất giống - Cty Vinhthinhbiostadt


 
Trở về
Thông tin khác

Sản phẩm tiêu biểu

Hỗ trợ trực tuyến

  • Hotline Vinhthinh Biostadt - Thủy Sản Hotline Vinhthinh Biostadt - Thủy Sản Zalo - ĐT: 0912 889 542
  • Hotline Vinhthinh Biostadt- Nông Nghiệp Hotline Vinhthinh Biostadt- Nông Nghiệp Zalo - ĐT: 0915446744

HOTLINE0912.889.542

Các đối tác của chúng tôi