Quá trình nuôi tôm bao gồm nhiều bước theo thứ tự quan trọng, từ việc mua tôm giống (PL) từ các trại, để nuôi chúng đến các kích thước thương phẩm trong các hệ thống (bể, ao, raceways) yêu cầu sự quản lý đầu vào và giám sát liên tục và với đa dạng các mô hình sản xuất khác nhau (quảng canh đến siêu thâm canh).
Ngoài ra còn có một số bước ít chú ý đó là những bước ngắn hơn (vài giờ đến vài ngày) nhưng điều đó cực kỳ quan trọng liên quan đến sự thành công hay thất bại của cả quá trình. Một trong các bước đó là sự thích nghi (thuần) của tôm giống với điều kiện môi trường hiện nay trong các hệ thống nuôi thương phẩm mà điều kiện thường rất khác so với trại giống.
Sự thay đổi đột ngột điều kiện môi trường có thể gây stress đáng kể mặc dù không nhất thiết gây chết tuy nhiên điều đó dẫn đến tốc độ tăng trưởng chậm hơn, giảm năng suất và lợi nhuận vào cuối chu kì sản xuất.
Điều kiện cho sự phát triển của tôm giống trong trại bao gồm các yếu tố tương đối an toàn, có thể dự đoán sự ổn định của các chỉ tiêu môi trường như nhiệt độ và độ mặn, nơi mà thức ăn luôn có sẵn và hiện tượng ăn nhau không là vấn đề. Hầu hết người nuôi tôm dành nguồn lực đáng kể và nỗ lực trong việc chuẩn bị ao để tạo ra điều kiện môi trường tốt nhất có thể, như là không có sự xuất hiện của các động vật ăn thịt, đối thủ cạnh tranh thức ăn và các yếu tố bất lợi càng ít càng tốt, và nguồn thức ăn phong phú từ các vi sinh vật sống
Tuy nhiên, quá trình chuyển đổi từ điều kiện trại giống ra những hệ thống nuôi mở bên ngoài như bể và ao, nơi mà điều kiện nước thay đổi liên tục hoặc không thể dự đoán trước được (ngày và đêm, mùa khô và mùa mưa theo chu kỳ sản xuất) có thể gây ra một tổn thương và căng thẳng cho tôm giống nếu không thực hiện quá trình chuyển đổi dần dần và giảm thiểu các yếu tố bất lợi cho tôm. Bài viết này sẽ xem xét lại một số yếu tố chính của việc thuần tôm như là một bước quan trọng trong việc thành công của nghề tôm.
Đánh giá sức chịu đựng của tôm
Có sự đa dạng đáng kể về sức khỏe hoặc "sức chịu đựng" của tôm giống được sản xuất từ các trại giống, các nhà sản xuất cho rằng kế hoạch thuần tôm phải được thiết kế riêng cho việc thích nghi của tôm giống, nơi mà những con mạnh hơn có thể được thích nghi với tốc độ nhanh hơn những con yếu. Những phương pháp kiểm tra khác nhau đã được sử dụng để đánh giá các lô giống và xác định sức chịu đựng của chúng nhằm đưa ra một lịch trình thuần phù hợp. Các phương pháp kiểm tra hoặc thách thức thường thực hiện trên mẫu tôm giống từ 100 đến 200 con về khả năng chịu nhiệt, thẩm thấu hoặc sốc hóa học từ một đến bốn giờ và sau đó kiểm tra số lượng con còn sống.
Một thách thức được sử dụng rộng rãi là của Clifford (Kỷ yếu của phiên họp đặc biệt nuôi tôm. Thế giới Nuôi trồng thủy sản, Mỹ, 1992) Ông đề nghị một phương pháp tiêu chuẩn kiểm tra sức chịu đựng của tôm, nơi mà mẫu tôm được đặt trong một thùng hoặc bể, với độ mặn và nhiệt độ của nước được giảm xuống tương ứng 20 ppt và 10oC trong 4 giờ (một thử nghiệm dưới 4 giờ không thể hiện đầy đủ việc kéo dài và làm tôm chết).
Một trong những phương pháp của thử nghiệm này là sử dụng phoocmon với nồng độ 100-150 ppm. Nếu tỷ lệ sống của tôm giống đạt 80-100% cho thấy tôm giống có chất lượng cao, với tỷ lệ sống còn 60-79% thì đánh giá là lô tôm chấp nhận được, và tỉ lệ sống dưới 60% thì lô tôm được loại bỏ hoặc giữ nó trong trại trong vài ngày nữa để cố gắng cải thiện sức khỏe và chất lượng của chúng.
Một phương pháp khác để đánh giá sức khỏe tôm giống được thực hiện bởi Brock và Main (Viện Hải Dương Học, 1994). Trong một hoặc hai chỉ tiêu (nhiệt độ hoặc độ mặn) để kiểm tra sức khỏe tôm, 100 con tôm giống được lấy mẫu ngẫu nhiên và được đặt trong một thùng chứa 10-15 lít nước ở 22oC và độ mặn 5 ppt (kiểm tra 2 chỉ tiêu) hoặc nhiệt độ môi trường tại trại giống và độ mặn 0-1 ppt. Tôm giống được duy trì trong điều kiện này một giờ và những con còn sống (những con bơi và phản ứng bình thường) sẽ được đếm. Lô tôm được cho là đạt yêu cầu nếu tỷ lệ sống từ 80% hoặc cao hơn.
Hình: Các khu vực thuần tôm trên bờ ao nuôi. Lưu ý sắp xếp ngăn nắp thùng tôm trên bờ ao (trái); bể thuần (giữa); và đếm số lượng tôm
Vị trí thuần và trang thiết bị
Chuẩn bị vị trí thuần và thiết bị thích hợp là một bước vô cùng quan trọng trong thuần tôm giống. Nhiều tác giả khác sau đó đã xem xét các chủ đề, và một số điểm chính được đề cập dưới đây. Vị trí thuần - bao gồm tất cả các bể và các dụng cụ chứa nước, thiết bị (lưới, xi phông, xô, ống, các vật tư khác) - phải được rửa thật sạch và khử trùng bằng cách chà với nước clo hoặc chất khử trùng khác, rửa sạch nhiều lần và phơi khố dưới ánh nắng mặt trời.
Tầm quan trọng của việc có các thiết bị đáp ứng đúng chức năng và được hiệu chuẩn chính xác để theo dõi các thông số nước (nhiệt độ, độ mặn, độ pH, oxy hòa tan) trước khi tôm giống đến vị trí thuần phải được chú trọng. Thời gian để nhận ra rằng khúc xạ kế chưa được hiệu chỉnh đúng cách hoặc màng thăm dò của chúng không tốt là quá trình chuẩn bị, không phải trong lúc thuần.
Nếu có thể, thiết bị dự phòng rất được khuyến khích trang bị, đặc biệt đối với các thiết bị quan trọng như thiết bị sục khí (thiết bị phát điện) và khúc xạ kế. Tất cả các thiết bị phải có sẵn trước khi tôm giống đến, bao gồm cung cấp đủ thức ăn tổng hợp (thức ăn tổng hợp dùng để thuần rất được khuyến khích) hoặc Artemia đông lạnh và chất kiểm soát amoniac, than hoạt tính, chất đệm hoặc các chất cần thiết khác.
Quy trình thuần chung
Quy trình thuần đã được công bố trong nhiều năm, bao gồm các bước sau: độ mặn tăng hoặc giảm không quá 3 ppt/ giờ; Mật độ thuần: 1.000-5.000 PL mỗi gallon tương đương khoảng 260-1,300 PL / lít; tránh thay đổi nhiệt độ đột ngột (hơn 3-4oC); duy trì nồng độ oxy hòa tan ở mức 6-7 ppm.
Có một số ấn phẩm gần đây xem xét lại và mô tả quy trình thuần tôm, hầu hết các trang trại nuôi tôm phát triển và thực hiện các quy trình riêng của họ phù hợp với điều kiện từng nơi, nguồn lực và quy trình quản lý. Tôm giống có thể được thuần theo những cách khác nhau.
Ví dụ, tại một số trang trại khi sự khác biệt về độ mặn và nhiệt độ giữa các ao hoặc bể nuôi và nước vận chuyển tôm tối thiểu (> 3-4 ppt; 1-2oC) thì việc thuần có thể đơn giản như đặt các bọc tôm trong ao 30-60 phút (sau khi đục các lỗ nhỏ trên túi) và sau đó thả tôm ra môi trường nuôi, mặc dù phương pháp này không được khuyến cáo.
Quá trình thuần cũng có thể được bắt đầu trên đường vận chuyển (từ trại giống đến khu nuôi) khi tôm giống được vận chuyển trong các thùng chứa lớn bằng cách thêm từ từ nước với những đặc điểm mong muốn (nhiệt độ, độ mặn, pH của ao) và hoàn thành khi đến các khu nuôi. Nhưng nhìn chung hầu hết các trang trại có khu vực thuần chuyên dụng hoặc sử dụng các khu thuần tạm thời được thiết kế bên cạnh ao nuôi, và một số trang trại sẽ có cả hai, hoặc thậm chí cả hệ thống gièo, là mô hình đang dần trở nên phổ biến.
Hình: Khu vực thuần tại các trang trại nuôi tôm (trái); các hệ thống ương gièo mới (giữa, bên phải) cũng có thể được sử dụng như là các khu vực thuần tôm vào đầu của chu kỳ nuôi, khi tôm giống đến trang trại nuôi.
Có nhiều phương pháp nhưng quá trình thuần cơ bản liên quan đến việc giữ tôm giống một khoảng thời gian trong bể và từ từ thêm nước từ các ao sẽ thả để cân bằng các thông số môi trường (chủ yếu là độ mặn và nhiệt độ). Đặc biệt phải chú ý đến việc giảm tối thiểu các yếu tố bất lợi cho tôm. Luôn giữ nồng độ oxy hòa tan ở mức gần bão hòa và tôm giống phải được cho ăn và theo dõi suốt quá trình thuần.
Artemia sống và đông lạnh, lòng đỏ trứng nấu chín và các loại thực phẩm khác được sử dụng, nhưng nhìn chung việc sử dụng Artemia sống không được khuyến khích vì nguy cơ kích thích sự ăn thịt lẫn nhau trong đàn tôm. Mật độ đóng gói phụ thuộc vào tuổi của tôm giống và thời gian vận chuyển, có thể dao động từ 1,500-3,000 PL / lít cho giai đoạn tôm nhỏ(
Giảm nhiệt độ nước khi vận chuyển (từ 18-22
Độ mặn có lẽ là thông số quan trọng nhất trong quá trình thuần tôm giống. Các tác giả khác nhau đề nghị mức điều chỉnh độ mặn khác nhau trong quá trình thuần tôm giống; ví dụ, tăng / giảm không quá 3 ppt mỗi giờ. Các tác giả khác đã báo cáo thành công sử dụng một quá trình thuần độ mặn trung bình 18-20 giờ trong trang trại ở các nước Mỹ Latinh, trong ao nuôi phẩm nơi độ mặn mùa mưa dao động 0-2 ppt và 6-10 ppt trong mùa khô.
Hình: Cơ sở vật chất cho giai đoạn thuần hiện đại và hệ thống gièo cho phép thả tôm giống lớn hoặc tôm con khỏe mạnh vào ao nuôi.
Quy trình này liên quan đến thời gian như sau: 20 phút (35-15 ppt), 30 phút (15-10 ppt), 60 phút (10-4 ppt), và 120 phút (4-0 ppt). Những quy trình đề nghị nên được sử dụng làm cơ sở cho việc phát triển một quy trình trong nhà và nó rất quan trọng để lưu ý rằng tỷ lệ thuần thực tế sẽ khác nhau tùy thuộc vào chất lượng tôm giống, điều kiện và giai đoạn của tôm cũng như độ lớn của sự thay đổi thông số môi trường, đặc biệt là độ mặn và nhiệt độ, và cũng tùy thuộc vào việc hai thông số đó được điều chỉnh lên hoặc xuống.
Biến đổi sinh lý của tôm giống trong quá trình thuần
Môi trường nước trong các hệ thống nuôi, đặc biệt là các bể ngoài trời, ao và hệ thống raceways dưới thay đổi liên tục. Thay đổi đột ngột và dữ dội có thể dẫn đến tôm giống không có khả năng thích nghi và tồn tại, hoặc các yếu tố bất lợi ảnh hưởng đến sự tăng trưởng, sự tồn tại và năng suất một cách đáng kể.
Dấu hiệu của căng thẳng thường thể hiện rõ ràng trong hoạt động và mô của tôm giống. Điều kiện như oxy hòa tan thấp và độ mặn thấp là hai thông số quan trọng ảnh hưởng đến các hoạt động sinh lý và trao đổi chất bình thường của tôm giống trong quá trình thuần. Nhiều biến đổi sinh lý sẽ xảy ra trong quá trình thuần trước khi thả tôm giống vào các hệ thống nuôi và người quản lý phải có nhận thức về những vấn đề quan trọng và ý nghĩa của chúng.
Dinh dưỡng thích hợp là một yếu tố quan trọng trong khả năng chịu đựng sự thay đổi của điều kiện môi trường. Ví dụ, Tôm giống cho ăn với chế độ dinh dưỡng HUFAs cao (axit béo không bão hòa) có thể chịu được sự thay đổi độ mặn trong quá trình thuần và chuyển sang hệ thống nuôi sau khi thả giống. Mức tiêu thụ oxy có thể thay đổi để đáp ứng với sự thay đổi độ mặn.
Hình: Sắp xếp các thùng chứa để vận chuyển tôm giống từ trại giống đến ao nuôi
Quan điểm
Tôm giống được thuần trước khi thả vào hệ thống nuôi khác nhau (ao, raceways, bể) là quan trọng tuy nhiên thường bị bỏ qua và xem thường trong quá trình nuôi tôm. Việc quan trọng nhất trong quá trình thuần là thông số cần được thay đổi từ từ để tôm giống có cơ hội thích nghi dần dần. Nói chung, với nhiều thông số, tốc độ thay đổi quan trọng hơn so với mức độ của sự thay đổi (trong giới hạn chấp nhận được). Sự ảnh hưởng của các yếu tố cộng lại có thể cũng phải được xem xét, bởi vì thay đổi một chỉ số (ví dụ độ mặn hay nhiệt độ) có thể mang lại sự tác động tới các thông số khác (ví dụ, oxy hòa tan, amoniac).
Giảm thiểu các yếu tố bất lợi phải được ưu tiên hàng đầu trong quá trình đóng gói tại các trại giống và vận chuyển đến trang trại nuôi, thông qua các quá trình thuần và thả giống, bởi khi tôm giống bị ảnh hưởng bởi các yếu tố đó đặc biệt là khi thả vào môi trường nuôi với rất nhiều động vật ăn thịt khác không giống như trong trại giống thì khả năng sống sót sẽ giảm hoặc nếu chúng sống thì có thể sẽ mang theo bệnh tật và sẽ không vượt qua được, dẫn đến giảm tỷ lệ sống, tăng trưởng, sản lượng và lợi nhuận.
Nguồn: http://advocate.gaalliance.org
HOTLINE0912.889.542