Nghiên cứu về dinh dưỡng cho tôm bố mẹ là một yếu tố quan trọng trong việc tăng cường nguồn tôm thuần hóa và chọn lọc di truyền cho nuôi trồng thủy sản. Sự phát triển của các dòng tôm cải thiện di truyền được hưởng lợi từ sự phát triển đồng thời của thức ăn chuyên biệt phù hợp với yêu cầu của từng dòng tôm bố mẹ khác nhau.
Ngoài ra, với chi phí cao của thức ăn trong các cơ sở nuôi vỗ tôm bố mẹ - ước tính khoảng 30% tổng chi phí, cũng như sự phụ thuộc quá nhiều vào các loại thức ăn tươi như mực, động vật thân mềm, giun nhiều tơ có thể không ổn định về chất lượng và nguồn cung, cho thấy một nhu cầu cần thiết về thức ăn nhân tạo.
Vào năm 2001, tác giả chính đã xem xét các tài liệu có sẵn về chế độ ăn của tôm bố mẹ và nhận thấy thiếu các ấn phẩm khoa học về chủ đề này, có thể là do chi phí và độ phức tạp của quá trình nghiên cứu trong lĩnh vực này.
Rất ít nghiên cứu được tiến hành trên thức ăn nhân tạo như là một nguồn dinh dưỡng duy nhất. Hầu hết các nghiên cứu đều báo cáo về thức ăn tươi sống, sử dụng toàn bộ thức ăn tươi sống hoặc kết hợp thức ăn tươi sống với thức ăn nhân tạo hoặc bổ sung thức ăn nhân tạo.
Hình 1 - Các loại thức ăn tươi đông lạnh từ biển như mực, trai thường được cho tôm bố mẹ ăn để đảm bảo hiệu suất sinh sản tối ưu
NUÔI VỖ THÀNH THỤC VÀ DINH DƯỠNG
Trong quá trình thành thục sinh dục của tôm, dinh dưỡng dự trữ, chủ yếu là từ gan tụy, được huy động để hỗ trợ sự phát triển của buồng trứng và túi tinh. Các mô dự trữ có thể bị cạn kiệt nhanh chóng, vì vậy chế độ ăn uống trở thành nguồn cung cấp dinh dưỡng quan trọng nhất cho trứng phát triển. Điều này đặc biệt đúng khi kỹ thuật cắt mắt được sử dụng để thúc đẩy thành thục.
Những thay đổi về nội tiết tố và trao đổi chất trong quá trình thành thục ép buộc có thể xảy ra khi dinh dưỡng dự trữ không đủ để hỗ trợ cho buồng trứng phát triển nhanh. Điều này đặt ra một gánh nặng lớn hơn về thức ăn nhân tạo như một nguồn dinh dưỡng thiết yếu.
LIPID (CHẤT BÉO)
Trong quá trình thành thục sinh dục, chất béo dự trữ huy động từ gan tụy và từ thức ăn được xử lý nhanh chóng để vận chuyển đến buồng trứng. Tầm quan trọng của chất béo trong thành thục sinh dục từ lâu đã được công nhận, và nhiều báo cáo đã tập trung vào lipid, đặc biệt là tầm quan trọng của axit béo không no (HUFAs) và phospholipid.
Hàm lượng lipid trung bình trong thức ăn nhân tạo là 10%, cao hơn so với trong thức ăn chế biến khoảng 3%. Tổng hàm lượng lipid trong thức ăn nhân tạo gần như không quan trọng, mặc dù có một nghiên cứu đã cho rằng tổng hàm lượng lipid trên 9% có ảnh hưởng xấu đến sự khởi đầu của quá trình thành thục buồng trứng và tiêu hóa thức ăn của tôm thẻ chân trắng Thái Bình Dương, Litopenaeus vannamei.
HUFAs, đặc biệt là eicosapentaenoic acid và docosahexaenoic acid, có hàm lượng rất cao trong các mô buồng trứng. Nó được cho là thành phần quan trọng của chế độ ăn thành thục, khi chế độ ăn thiếu n-3 HUFAs thì ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển của buồng trứng, khả năng sinh sản, và chất lượng trứng.
Arachidonic acid (20:4 n-6) đã được tìm thấy với hàm lượng cao trong buồng trứng của tôm tự nhiên và cũng rất nhiều trong một số loại thức ăn tươi tốt nhất, chẳng hạn như giun nhiều tơ (trùn đất), trai, và hến. N-6 HUFAs là tiền thân của các hormone prostaglandin có thể đóng một vai trò trong việc hình thành noãn hoàng.
Nhiều loại thức ăn nhân tạo cho tôm bố mẹ thiếu acid arachidonic và có hàm lượng axit eicosapentaenoic tương đối thấp. Trong chế độ ăn của tôm bố mẹ, tỉ lệ giữa các HUFAs n-3: n-6 là 03:01 có thể giúp tăng năng suất sinh sản tối ưu.
Phospholipid, chủ yếu là phosphatidylcholine và phosphatidyletanolamine, chiếm ưu thế trong buồng trứng tôm. Một số nghiên cứu đã xác định nhu cầu phospholipid trong chế độ ăn của tôm bố mẹ với mức 2% giúp đảm bảo 50% tổng số lipid trong trứng là Phospholipid.
Trong quá trình thành thục, hàm lượng triacylglycerides trong buồng trứng tăng lên để tích hợp vào trứng. Triacylglycerides là nguồn năng lượng chủ yếu trong trứng và Nauplii, tầm quan trọng của nó trong quá trình sinh sản ( chất lượng trứng và postlarval) đã được chứng minh.
PROTEIN (ĐẠM) VÀ AMINO ACID
Thành thục sinh dục liên quan đến việc tổng hợp protein cường độ cao, có thể là do các yêu cầu về protein cao hơn vào lúc này. Những nghiên cứu chi tiết về nhu cầu protein cho tôm bố mẹ vẫn còn thiếu, mặc dù nó đã được gợi ý rằng các axit amin trong thức ăn tươi sống có thể cung cấp đủ nhu cầu axit amin.
Một số nghiên cứu đã cho thấy sự gia tăng hàm lượng protein của buồng trứng liên quan tới sự phát triển của trứng và sinh sản. Tôm L. vannamei với hiệu suất sinh sản cao có hàm lượng protein trong gan tụy và trong trứng cao hơn rõ rệt so với tôm mẹ có hiệu suất sinh sản thấp. Hàm lượng protein trong thức ăn nhân tạo thường khoảng 50% - thấp hơn so với trong thức ăn tươi sống (Bảng 1).
Bảng 1: Phân tích về các thành phần trong thức ăn tươi sống và thức ăn nhân tạo của tôm he bố mẹ
ns = không xác định
A = mực, giun biển, tôm và artemia với tỉ lệ 4:2:2:1
B = mực và trai với tỉ lệ 1.3:1
CARBOHYDRATES
Carbohydrate dường như không phải là thiết yếu trong chế độ ăn của tôm bố mẹ, mặc dù lượng đường trong trứng liên quan tới chất lượng ấu trùng và sức khỏe của tôm bố mẹ. Tinh bột có thể được sử dụng như nguyên liệu và chất kết dính hiệu quả, và có thể đóng vai trò trong việc vận chuyển các chất dinh dưỡng trong huyết tương.
VITAMIN VÀ KHOÁNG CHẤT
Nhu cầu chi tiết về vitamin và khoáng chất trong chế độ ăn của tôm bố mẹ là tương đối không rõ ràng, chỉ có một vài nghiên cứu hoàn chỉnh về vitamin A, C, và E. Thiếu vitamin E liên quan tới tinh trùng bất thường của tôm thẻ chân trắng Đại Tây Dương, Litopenaeus setiferus, và tỉ lệ trứng nở được cải thiện khi tăng hàm lượng vitamin E trong thức ăn, có nghĩa là hàm lượng vitamin E trong trứng cao.
Có một mối tương quan giữa hàm lượng alpha tocopherol trong chế độ ăn với tỉ lệ đẻ trứng và tỉ lệ nở trong sinh sản tự nhiên của tôm L. vannamei. Vitamin E trong noãn hoàng cũng có thể hoạt động như một chất chống oxy hóa tự nhiên.
Vitamin A được tích lũy trong buồng trứng của động vật giáp xác trong quá trình thành thục sinh dục, điều đó cho thấy vai trò của vitamin trong thức ăn. Hàm lượng vitamin C trong trứng của tôm thẻ chân trắng Ấn Độ, Fenneropenaeus indicus, bị ảnh hưởng bởi hàm lượng của nó trong thức ăn. Tỉ lệ trứng nở cao liên quan đến nồng độ acid ascorbic cao trong trứng. Vitamin D cũng được cho là quan trọng trong chế độ ăn của tôm bố mẹ vì nó có vai trò trong quá trình chuyển hóa canxi và phốt pho trong động vật giáp xác.
Sự thiếu hụt hoặc mất cân bằng khoáng chất có thể ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình sinh sản của động vật giáp xác và có thể là nguyên nhân dẫn tới việc tái hấp thu noãn bào, giảm khả năng sinh sản, và giảm chất lượng trứng. Những nghiên cứu về nhu cầu khoáng chất là rất ít, nhưng những nơi đã thực hiện thì thức ăn tổng hợp được bổ sung hỗn hợp khoáng chất có thêm canxi, phốt pho, magiê, natri, sắt, mangan và selen.
Các chi của tôm bố mẹ L. vannamei có hàm lượng canxi và magiê thấp hơn trong cơ và hàm lượng magiê thấp hơn trong gan, có thể là do chế độ ăn uống thiếu hụt khoáng chất, tiêu hao qua quá trình lột xác và chuyển giao cho trứng. Nguyên tố Đồng giảm trong gan tụy, có thể do chuyển giao cho buồng trứng, mặc dù nó tăng trong mô cơ. Rõ ràng là cần thêm những nghiên cứu trên khoáng chất trong khẩu phần ăn cho tôm he bố mẹ.
Hình 2 - Việc cắt mắt giúp thúc đẩy quá trình thành thục sinh dục, nhưng đòi hỏi phải huy động nhanh chóng các chất dinh dưỡng từ nguồn dự trữ của cơ thể và từ thức ăn. Ảnh: Patricio Rafael.
CAROTENOIDS
Carotenoid, đặc biệt là astaxanthin, là chất chống oxy hóa mạnh giúp bảo vệ nguồn dự trữ dinh dưỡng của tôm bố mẹ và phát triển phôi khỏi quá trình oxy hóa. Nó cũng có vai trò trong các hoạt động như dự trữ sắc tố trong phôi và ấu trùng cho sự phát triển của tế bào sắc tố, đốm mắt và nó cũng là một tiền chất của vitamin A.
Động vật giáp xác không thể tự tổng hợp carotenoid, mà chúng có được từ nguồn thực phẩm chứa các sắc tố. Trong quá trình thành thục sinh dục, carotenoids tích lũy trong gan tụy. Trong quá trình hình thành noãn hoàng, chúng được vận chuyển trong hemolymph dưới dạng carotenoglycolipoproteins tích lũy trong trứng như là một phần của protein noãn hoàng.
Hàm lượng sắc tố cần thiết của một chế độ ăn chính có thể liên quan trực tiếp đến sự tương đồng của các carotenoid như astaxanthin và beta-carotene. Astaxanthin phong phú hơn beta-carotene, nó có sắc tố và tính chống oxy hóa mạnh mẽ hơn, nhưng vẫn chưa được chuyển đổi thành dạng retinoids (các dẫn xuất của vitamin A) so với beta-carotene.
Retinoids được cho là để kích hoạt các cơ chế nội tiết cần thiết cho sự trưởng thành và phát triển của phôi thai. Việc cắt mắt ảnh hưởng đến hầu hết các phản ứng sinh hóa liên quan đến sự trao đổi chất của carotenoids và có thể ngăn chặn các hoạt tính sinh học của retinoids. Do đó cả astaxanthin và betacarotene được đề xuất trong chế độ ăn của tôm bố mẹ cắt mắt.
Chất lượng ấu trùng giảm dần trong những đợt sinh sản kế tiếp có liên quan đến sự thiếu hụt sắc tố trong buồng trứng của tôm mẹ L. vannamei. Việc bổ sung 2% ớt bột (một nguồn carotenoids rẻ tiền) với thức ăn tươi giúp cải thiện đáng kể tỉ lệ sống của ấu trùng zoea 2. Bổ sung astaxanthin ở mức 50 mg/kg thức ăn giúp tăng sản lượng trứng ở tôm sú Penaeus monodon, tuy nhiên nó không cho thấy tác dụng đối với một trong hai yếu tố là tỷ lệ nở và tỉ lệ chuyển giai đoạn zoea 1.
HORMONES
Các nghiên cứu cho rằng thức ăn tươi sống đem lại lợi ích thông qua việc cung cấp các hormones hoặc tiền thân của chúng. Một phần của sự thành công trong việc bổ sung Artemia vào thức ăn bố mẹ có thể là do sự có mặt của các hormone này hoặc các peptide tương tự trong Artemia. Giun nhiều tơ được sử dụng trong nuôi vỗ thành thục chứa methyl farnesoate, một hormone giúp tăng khả năng sinh sản.
Hình ảnh cho thấy buồng trứng trưởng thành của tôm mẹ Litopenaeus vannamei đã cắt mắt. Ảnh: Patricio Rafael.
NUCLEOTIDES
Theo truyền thống, nucleotide không được coi là chất dinh dưỡng thiết yếu, mặc dù một số nghiên cứu đã chứng minh rằng nguồn thực phẩm nucleotide có thể có lợi. Nguồn nucleotides ngoại sinh giúp tối ưu hóa các chức năng phân chia của mô, chẳng hạn như phôi thai đang phát triển, cơ quan sinh sản và hệ thống miễn dịch.
Quá trình phát triển của trứng cần một nhu cầu cao RNA và DNA, việc tăng hàm lượng các nucleotide trong khẩu phần ăn tôm bố mẹ có thể có lợi đối với sự phát triển của trứng. Gần đây, một nghiên cứu đã chỉ ra rằng nucleotide làm giàu trong thức ăn bố mẹ cá bơn Đại Tây Dương Hippoglossus hippoglossus, và cá vược chấm đen Melanogrammus aeglefinus giúp tăng hiệu suất sinh sản và chất lượng trứng tốt hơn. Cho đến nay, chưa có một công bố nào về việc bổ sung nucleotide trong thức ăn tôm bố mẹ.
KẾT LUẬN
Kiến thức hiện nay về dinh dưỡng cho tôm bố mẹ còn rất ít. Điều này một phần là do sự phức tạp và chi phí tiến hành nghiên cứu trong lĩnh vực này.
Vai trò của dinh dưỡng trong nuôi vỗ tôm bố mẹ sẽ là vấn đề cơ bản trong việc có được hiệu suất sinh sản tối ưu từ các dòng thuần. Ngay cả ở các loài mà việc thuần hóa không phải là một vấn đề, thì việc cải thiện hiệu suất thành thục và sản xuất ấu trùng vẫn còn là một mục tiêu quan trọng trong việc cải thiện hiệu quả của hệ thống sản xuất.
Tác giả:
Tiến sĩ Roeland Wouters, INVE Technologies N.V. Hoogveld 93, B-9200 Dendermonde - Bỉ
Daniel F. Fegan - Alltech Inc.- Bangkok, Thailand
Nguồn: The GLOBAL AQUACULTURE ADVOCATE - THÁNG 6/2004
Người dịch: KS. NGUYỄN VĂN THÀNH - CÔNG TY VINHTHINHBIOSTADT