FacebookZaloLinkedinYoutube
FacebookZaloLinkedinYoutube
CLINZEX DIỆN MẠO MỚIDIỆN MẠO MỚICHUỖI CUNG ỨNG VINHTHINH BIOSTADT HƯỚNG ĐẾN PHÁT TRIỂN BỀN VỮNGChế phẩm thảo dược tổng hợpENVOMIN - AQUAMIN - SUP PREMIX - ECO MINERALESOMAX - HOẠT CHẤT TINH DẦU KHÁNG SINH - GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT BỆNH GAN TỤY VÀ PHÂN TRẮNGRa mắt sản phẩm mới Yucca VTB ZUCCA - QUILA YUCCA - TF ZUCCA - ECO ZUCCAKhoáng tạt cao cấpWOKOZIM TỐI ƯU HÓA MỌI GIẢI PHÁPTHUỐC TRỪ SÂU SINH HỌCuongveoVinhthinhbiostadtGiống tôm thẻ chân trắng VTBHSản phẩm Nông NghiệpWokozim đã được sử dụng trên 40 loại cây trồng và hơn 20 quốc gia trên thế giớiLiên doanh giữa Vinhthinh & tập đoàn Biostadt -Ấn ĐộVinhthinh Biostadt

Những điều cần biết về EMS trong qui trình nuôi tôm

Lời khuyên để phòng tránh nguy cơ suy giảm số lượng lớn trên tôm gây ra bởi hiệu ứng chết sớm (EMS) - Một trong những loại dịch bệnh có sức tàn phá lớn nhất cho lĩnh vực nuôi tôm công nghiệp trong suốt thập kỷ qua. Bài viết dưới đây được thực hiện bởi Alune, ngày 30 tháng 11 năm 2020.

Alune là một công ty dẫn đầu về công nghệ tài chính trong nuôi trồng thủy sản, làm việc trực tiếp với người nuôi, các nhà đầu tư và các đối tác công nghệ. Alune sử dụng các kiến thức chuyên môn về nuôi trồng thủy sản nội bộ, quy trình quản trị rủi ro toàn phần và các mối quan hệ hợp tác giữa người nuôi với các đối tác để giúp họ đạt được mục tiêu đề ra.



Ảnh chụp từ trên không của các ao nuôi tôm (nguồn: Alune, 2020)


Năm 2018, Tổ chức Nông Lương Thế Giới (FAO) báo cáo rằng sản lượng ngành nuôi trồng thủy sản trên thế giới đã đạt mức cao nhất từ trước đến nay, đạt mức 114,5 triệu tấn, trị giá 263,3 tỷ USD doanh thu từ nông trại. Sản lượng nuôi trồng các loài giáp xác là 9,4 triệu tấn, trị giá 69,3 tỷ USD. Trong đó, 52,9% đến từ tôm thẻ chân trắng Thái Bình Dương (Litopenaeus vannamei).

Cùng với sự phát triển của ngành nuôi trồng thủy sản và nền công nghiệp đang tìm kiếm sự ổn định để hỗ trợ cho việc tăng trưởng bền vững, công việc phòng ngừa, dự báo và quản lý dịch bệnh thực sự cần thiết hơn bao giờ hết. Một trong những loại bệnh phức tạp nhất trong nghề nuôi tôm, đặc biệt là nuôi tôm thẻ chân trắng, là hội chứng tôm chết sớm (EMS), hay còn được gọi dưới tên khác là bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND).

Kể từ khi được phát hiện vào năm 2009, bệnh EMS/AHPND đã trở thành một trong những thách thức chính trong nghề nuôi tôm. Sau khi được phát hiện ở Trung Quốc, EMS đã lây lan ra rất nhiều các quốc gia khác trong khu vực Đông Nam Á. Do tỷ lệ chết cao, rất nhiều quốc gia sản xuất tôm khị bị ảnh hưởng bởi EMS/AHPND đã giảm đáng kể sản lượng và doanh thu xuất khẩu.

Trong bài viết này sẽ đi sâu vào tìm hiểu về dịch bệnh EMS/AHPND là gì? Các thiệt hại do nó gây ra và các biện pháp khác nhau để ngăn ngừa và chống lại sự bùng phát của EMS.

EMS/AHPND là gì?

Vào năm 2009, đã có một đợt bùng phát dịch bệnh nghiêm trọng làm gây ra tỷ lệ chết cao ở tôm thẻ chân trắng (L. Vannamei) và tôm sú (P. monodon) ở miền nam Trung Quốc. Ban đầu, các nhà nghiên cứu gọi bệnh này là Hội chứng tôm chết sớm (EMS) hay Hội chứng hoại tử gan tụy cấp tính (AHPNS). Đến năm 2010, số lượng các trang trại nuôi tôm ở Trung Quốc bị ảnh hưởng tăng lên nhiều hơn, và đến năm 2011, EMS/AHPND đã được phát hiện ở Việt Nam và Malaysia. Căn bệnh này cũng được xác nhận xuất hiện ở Thái Lan vào năm 2012.

Thời gian lúc ban đầu, các nhà khoa học cũng gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm ra nguyên nhân của EMS/AHPNS. Đã có một số giả thuyết về các chất độc trong môi trường và các tác nhân lây nhiễm, nhưng các nghiên cứu sau đó về lĩnh vực này đều không mang đến thành công.




Hình 1: Tôm giống thẻ chân trắng, L. vannamei, có dấu hiệu nhiễm bệnh EMS/AHPND (nguồn: Giáo sư D.V. Lightner)


Câu đố trên cuối cùng cũng được giải quyết vào năm 2013 dưới một phát hiện đột phá từ nghiên cứu được thực hiện bởi Loc Tran và cộng tác viên, khi tìm ra nguyên nhân gây bệnh do một loài vi khuẩn, Vibrio parahaemolyticus, loài này có mặt ở khắp nơi trong môi trường nước trong ao nuôi. Cộng với những hiểu biết rõ hơn về các tác nhân gây lây nhiễm bệnh, một tên gọi phù hợp hơn cho EMS/AHPND được đề xuất, đó là bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND).

AHPND ảnh hưởng đến con giống và ấu trùng của loài tôm thẻ và tôm sú, với khả năng gây chết hoàn toàn, 100%, trong vòng từ 10 đến 35 ngày sau khi ương. Loài vi khuẩn, V. parahaemolyticus, loài được tìm thấy trong môi trường tự nhiên tại các vùng nước cửa sông và ven biển và có tiềm ẩn nguy cơ gây bệnh EMS/AHPND, có chứa 02 loại gen gây hại, Pir A và Pir B. Ngoài ra cũng có một số loài vi khuẩn khác không thuộc chủng V. parahaemolyticus, như V. campbellii, V. harveyi, V. owensii và V. punesis cũng được phát hiện có chứa các mã gen độc hại và cũng có thể gây ra bệnh EMS/AHPND. Trong các vùng có độ an toàn sinh học thấp, các loài vi khuẩn trên có thể được lây lan dễ dàng giữa các ao nuôi hoặc cho các vùng nuôi xung quanh thông qua nguồn nước thải.

EMS/AHPND còn có thể được nhận biết thông qua quan sát dấu hiệu hình thể của tôm như gan và tụy có màu nhạt, bị teo một phần hoặc toàn phần, vỏ mềm, ruột chỉ đầy một phần hoặc trống trơn hoàn toàn. Tuy nhiên, để xác định chính xác bệnh, cần phải tiến hành kiểm tra mô bệnh học trong phòng thí nghiệm. Trong giai đoạn cấp tính, tôm bị nhiễm AHPND sẽ có biểu hiện bong tróc các tế bào biểu mô hình ống trong gan và tụy, như trong Hình 2.




Hình 2: Sự bong tróc các tế bào biểu mô hình ống trong gan và tụy của con giống tôm thẻ chân trắng (nguồn: Giáo sư D.V. Lightner)


Các trang trại sản xuất giống là một trong những nguồn lây nhiễm chính của EMS/AHPND – sự lây truyền giữa các ấu trùng tôm bị nhiễm bệnh có thể gây ra hiện tượng tôm chết hàng loạt sớm nhất là 14 ngày sau khi ương. Bệnh cũng có thể được lây lan qua hình thức ô nhiễm chéo – nơi mầm bệnh xâm nhập vào trong các ao nuôi qua các thiết bị, giày/chân, các loài chim hoặc cua – hoặc chúng không được loại bỏ hoàn toàn mà vẫn còn lưu trữ từ quy trình nuôi lần trước đó của ao. Tôm có thể dễ dàng bị nhiễm bệnh hơn trong một số điều kiện môi trường thuận lợi cho sự sinh sôi và phát triển của các loài vi khuẩn. Các yếu tố này có thể bao gồm:

  • Hàm lượng các chất dinh dưỡng trong môi trường nước ao có nồng độ cao có thể do bổ sung hàm lượng phân bón hoặc mật đường.
  • Nước có nhiệt độ cao, độ mặn > 5 ppt, và pH > 7.
  • Nước lưu thông kém và có ít các loài sinh vật phù du.
  • Sự tích tụ của các chất cặn lắng hữu cơ, chẳng hạn như từ lượng thức ăn dư thừa hoặc vỏ tôm lột.

Các tác hại do EMS/AHPND gây ra

EMS/AHPND đã và đang tàn phá ngành nuôi tôm ở khu vực Châu Á trong suốt 10 năm qua. Như đã thấy trong Hình 1, một trong những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất trong khu vực là Thái Lan, quốc gia nuôi tôm đã từng đứng thứ 2 thế giới sau Trung Quốc trước khi bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh AHPND và hiện tại đã rơi xuống vị trí thứ 6.

Kể từ khi bùng phát dịch bệnh EMS/AHPND vào năm 2012, sản lượng tôm của Thái Lan đã bị sụt giảm đáng kể. Tổng sản lượng đã giảm 54% trong khoảng thời gian từ năm 2009 đến 2014. Số lượng các trang trại nuôi cũng giảm 16%, trong khi diện tích đất được sử dụng để nuôi tôm giảm 10%. Một báo cáo khác cũng cho biết, từ năm 2010 – 2016, loại dịch bệnh trên đã gây ra thiệt hại tài chính lên đến 11,58 tỷ USD ở Thái Lan và đã dẫn đến hơn 100.000 người bị mất việc làm.



Sơ đồ 1: Sản lượng tôm thẻ chân trắng và các nguyên nhân suy giảm do dịch bệnh AHPND (nguồn: Shinn và ctv, 2018)


Mặc dù các quốc gia bị ảnh hưởng khác không phải chịu nhiều thiệt hại như Thái Lan, nhưng thiệt hại mà họ phải gánh chịu cũng rất đáng kể. Ví dụ như ở Việt Nam, AHPND đã gây ra tổng thiệt hại khoảng 2,56 tỷ USD kể từ lần đầu khi dịch bệnh này được phát hiện vào năm 2021. Nhiều quốc gia có ngành sản xuất tôm đã bị ảnh hưởng bởi AHPND vẫn đang phục hồi sau đợt dịch bệnh bùng phát và rất nhiều các quốc gia khác không bị ảnh hưởng nhưng cũng đang chuẩn bị các biện pháp ngăn ngừa để ngăn chặn sự lây lan của nó.

Bài học kinh nghiệm từ Thái Lan

Theo như thông tin phía trên, là một quốc gia có ngành công nghiệp nuôi tôm bị thiệt hại nặng nề nhất, Thái Lan vẫn đang cố gắng phục hồi sau đợt bùng phát dịch bệnh EMS/AHPND. Những người nuôi tôm đã bắt đầu thay đổi phương thức canh tác để chống lại sự lây nhiễm của vi khuẩn Vibrio spp. Và ngăn chặn một đợt bùng phát dịch bệnh mới.

Một mô hình trang trại nuôi thâm canh mới đã được phát triển, vơi mục đích để duy trì chất lượng đáy ao sạch sẽ. Thiết kế mới được dựa trên các hệ thống dòng chảy và tuần hoàn, với 04 thành phần chính:
  • Tăng cường diện tích khu vực xử lý nước.

  • Giảm kích thước các ao nuôi.

  • Ống thu gom trung tâm.

  • Tăng cường sục khí




Sơ đồ 2: So sánh quy trình nuôi trước và sau EMS/AHPND tại Thái Lan (nguồn: Shinn và ctv, 2018)

Tỷ lệ dự trữ nước cho các ao nuôi thương phẩm đã được thay đổi một cách đáng kể từ 20%:80% lên 60%:40%. Việc tăng thể tích các hồ chứa nước làm gia tăng lượng nước được dự trữ và thể tích lượng nước có thể được thay đổi nhiều hơn – giúp giảm thiểu các rủi ro từ các loại dịch bệnh và quản lý chất lượng môi trường nước tốt hơn. Bằng cách tận dụng phương thức nuôi ghép với các loại cá rô phi/cá sữa, nước từ khu vực tiền xử lý được chuyển vào ao có thả cá rô phi/cá sữa với mật độ 1-2kg/m2. Cả hai loại cá trên đều có khả năng duy trì tốt chất lượng môi trường nước và cải thiện lượng chất thải tích tụ trên đáy ao bằng cách tiêu thụ các chất thải hữu cơ có trong nước.

Sau đó, lượng nước được chuyển sang ao nuôi thương phẩm có lót bạt, nhựa HDPE, để tránh bị xói mòn đáy do dưới sự tác động của dòng nước khi bị xục khí liên tục. Kích thước của các ao nuôi thương phẩm cũng được giảm xuống để tối ưu hóa quá trình ôxy hóa đồng thời tận dụng hiệu quả sự chuyển động của dòng nước để đẩy chất thải đáy về phía hố xi phông. Diện tích bề mặt ao nuôi thương phẩm được giảm xuống - từ trung bình 8.000 m2 xuống 1.500 m2, hoặc thậm chí nhỏ nhất là  500 m2 – nhưng lại được bù đắp lại bằng chiều sâu của ao nuôi có thể đạt đến 3 m để có thể cung cấp đủ diện tích nước cho quá trình nuôi với mật độ cao hơn.

Trong khi đó, khu vực thu gom chất thải từ tôm trong các ao nuôi được thiết kế và tận dụng để thu gom các chất thải khi chúng được tích tụ vào một chỗ để nên có thể loại bỏ một các dễ dàng. Tổng diện tích bề mặt cho khu vực thu gom chất thải được khuyến khích nên đạt từ 5 – 7% tổng diện tích ao, đáy ao nên được thiết kế có độ dốc 25 – 30 độ và được lót bạt để giúp cho lượng chất thải hữu cơ được tích tụ vào trong hố xi phông được dễ dàng hơn. Quá trình xục khí nên được thực hiện liên tục đảm bảo vận chuyển hết số lượng chất bẩn xuống hố xi phông. Tùy thuộc và độ sâu và diện tích trong các ao nuôi thương phẩm mà có nhu cầu sử dụng công suất của các máy sục khí khác nhau, nhưng thông thường là máy có công suất khoảng 70 – 100 mã lực (hp) cho mỗi ha.

Sau khi kết thúc quy trình nuôi, lượng nước sẽ được lưu chuyển trở về khu vực tiền xử lý. Quá trình này được thực hiện nhằm giảm bớt lượng nước được lấy từ môi trường bên ngoài mà có thể ẩn chứa các nguồn dịch bệnh cao. Do đó, có thể làm giảm nguy cơ lây lan mầm bệnh từ các nguồn bên ngoài cũng như giảm bớt lượng nước thải ra ngoài môi trường. Qua đó, có thể giúp duy trì tính bền vững trong khu vực nuôi.

Như có thể thấy trong Hình 3, sản lượng ngành tôm của Thái Lan đang ngày được gia tăng. Các hệ thống nuôi cải tiến bên trên cũng cần phải có sự đầu tư về cơ sở hạ tầng cũng như nâng cao trình độ của đội ngũ kỹ thuật quản lý. Quá trình chuyển đổi từ mô hình nuôi cũ sang hình thức mới sẽ cần phải có thời gian và đòi hỏi sự đồng thuận và chính sách hỗ trợ tài chính của quốc gia để dẫn đến tính thống nhất chung cho toàn ngành nuôi tôm. Cũng cần lưu ý thêm rằng, Thái Lan cũng có các điều kiện khác như thuế và cơ cấu trong lĩnh vực công nghiệp quốc gia, chính điều này cũng đã hạn chế sự mở rộng của ngành công nghiệp này sau khi bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh EMS.




Sơ đồ 3: Thị trường sản xuất tôm Thái Lan, 2012-2022E (nguồn: BCG, 2019)

Các biện pháp hữu hiệu cho quản lý dịch bệnh EMS/AHPND

Không có bất kỳ một cách khắc phục nhanh chóng nào cho dịch bệnh EMS/AHPND – khi một trang trại bị nhiễm bệnh, biện pháp quản lý đưa ra cần được xem xét rất kỹ lưỡng. Trong trường hợp xấu nhất có thể xảy ra, người nuôi tôm nên chuẩn bị kế hoạch thu tất cả các ao tôm trong thời gian ngắn nhất. Điều này bắt buộc sự cam kết rất rõ ràng trong toàn bộ các thành viên trong nhóm để thực hiện nghiêm ngặt các biện pháp an toàn sinh học và thông qua giai đoạn khử trùng để ngăn ngừa dịch bệnh và tránh sự lây lan trong tương lai.

An toàn sinh học là một khái niệm dùng để thể hiện sự ngăn ngừa sự ảnh hưởng của các loại dịch bệnh và ngăn chặn sự lây lan của chúng ra các khu vực xung quanh. Có hai phương thức tiếp cận chủ yếu trong các biện pháp thực hiện an toàn sinh học –  ngăn chặn, loại trừ các loại mầm bệnh và các biện pháp nhằm loại bỏ các mầm bệnh. Chúng ta có thể chế ngự dịch bệnh EMS/AHPND bằng cách ngăn ngừa sự lây lan của chúng và cung cấp các điều kiện nuôi tốt hơn để tăng sức đề kháng của tôm đối với loại dịch bệnh này.

Dưới đây là một số biện pháp thực hành hữu hiệu để chế ngự dịch bệnh EMS/AHPND tại các trang trại bị nhiễm bệnh, bao gồm tất cả các khâu trong quy trình sản xuất giống và nuôi.

Chuẩn bị cho quy trình nuôi

  • Con giống, PL, cần được sinh ra từ nguồn gốc tôm bố mẹ không bị nhiễm AHPND. Sức khỏe tổng thể của tôm giống nên được kiểm tra thật kỹ trước khi thả giống, bao gồm việc áp dụng các biện pháp ‘shốc’.

  • Toàn bộ các trang thiết bị nên được khủ trùng trước khi thả giống. Việc sử dụng kết hợp nhiều chất khử trùng khác nhau có thê giúp loại bỏ được các vật trung gian truyền bệnh.

  • Các ao nuôi thương phẩm nên được lót bạt, HDPE để dễ dàng vệ sinh và kiểm soát môi trường tốt hơn.

  • Trước khi thả giống, ao nuôi thương phẩm nên được phơi khô hoàn toàn. Nguồn nước cũng nên được chuẩn bị sẵn sàng cho khoảng 10 – 15 ngày trước khi thả tôm.

  • Một kế hoạch về an toàn sinh học nên được áp dụng và xem xét lại sau mỗi quy trình nuôi.

  • Bảo vệ khu nuôi khỏi sự xâm nhập từ các loài sinh vật bên ngoài, chẳng hạn như sử dụng các thiết bị ngăn chặn sự di chuyển của loài cua.

  • Để tránh bị nhiễm khuẩn, nên thả giống đồng thời tại cùng một khu vực. Nên thả vào khu vực có tổng số lượng vi khuẩn Vibrio ít hơn 1 x 10^3 CFU/ml – tức là tại địa điểm mà tổng số lượng của loài này chiếm ít hơn 1% trên tổng số lượng vi khuẩn có trong ao nuôi.


Giảm thiểu EMS trong quá trình nuôi thương phẩm
 

  • Các thông số chất lượng môi trường nước - bao gồm độ pH, độ kiềm, độ mặn, oxy hòa tan (DO), nitơ amoniac và hydro sunfua - cần được theo dõi và kiểm tra thường xuyên.
  • Nên theo dõi sức khỏe của tôm ba ngày một lần, bao gồm kiểm tra sự co cơ và đánh giá tình trạng gan tụy.
  • Chế độ cho ăn nên được điều chỉnh để tránh cho ăn quá nhiều và nên sử dụng lượng thức ăn có hàm lượng protein trên 30%.
  • Các chất tích tụ trong đáy ao nên được xi phông thường xuyên.
  • Nên duy trì chế độ sục khí hợp lý.
  • Các loại hóa chất men tiêu hóa nên được sử dụng thường xuyên và tăng cường lưu lượng tại những khu vực xảy ra các hiện tượng bất thường hoặc trong quá trình thay nước.
  • Thống nhất lịch lấy nước vào và xả nước ra với các trang trại khác trong khu vực để giảm thiểu việc lan truyền mầm bệnh giữa các khu nuôi.
  • Khi có dấu hiệu ban đầu của dịch bệnh, ngay lập tức bắt buộc phải xây dựng và ban hành một kế hoạch quản lý phù hợp. Khi nghi ngờ có mầm bệnh, nên kiểm tra mẫu trong các phòng thí nghiệm chứng thực.




Các giải pháp dài hạn đối với EMS: Cơ sở hạ tầng và công nghệ

Việc đảm bảo các trang, thiết bị và cơ sở hạ tầng phù hợp cho các trang trại sẽ giúp quá trình duy trì các biện pháp an toàn sinh học và ngăn ngừa các loại mầm bệnh được thực hiện dễ dàng hơn, qua đó có thể mang lại nguồn lợi nhuận tài chính ổn định hơn. Cơ sở hạ tầng cần thiết để duy trì an toàn sinh học và bảo vệ chống lại mầm bệnh bao gồm: tấm lót bạt, HDPE, các khu vực vệ sinh chân, tay và các phương tiện chuyên dụng cũng như hàng rào và lưới để ngăn chặn sự xâm nhập của con người và động vật vào trong khu nuôi.

Các điều kiện cơ sở hạ tầng quan trọng khác bao gồm hệ thống đầu vào và đầu ra chuyên dụng của nước, hệ thống thoát nước trung tâm, các ao chứa nước tiền xử lý với lưu lượng tối thiểu bằng 30% thể tích của ao nuôi thương phẩm, sau xử lý, sục khí với máy có công suất 10 mã lực trên diện tích ao 1000 m2 với vòng hoàn lưu nước tốt, giai đoạn ương, thiết bị lưu trữ và một phòng thí nghiệm cơ bản tại chỗ với chế độ ánh sáng đủ mạnh cho quá trình giải phẫu và phân tích các chỉ tiêu môi trường nước cơ bản.

Ngoài ra cũng còn có các nhóm ngành công nghệ nổi bật mới có thể nâng cao khả năng tìm kiếm, phát hiện và cho phép quản lý tốt hơn đối với các loại mầm bệnh. Ngành công nghệ gen đang tạo ra những thay đổi đột biến trong việc phát hiện ra các loại dịch bệnh bằng cách cung cấp một phương thức mới giúp phát hiện các loại vi khuẩn gây bệnh và mật độ của chúng bằng Công Nghệ Tôm Đa Tuyến (Shrimp Multipath Technology). Tại đó, các xét nghiệm có thể phát hiện tối đa 10 ngày trước khi tôm có các dấu hiệu bệnh lâm sàng và có thể dẫn đến nguy cơ chết hàng loạt sau đó – giúp người nuôi có khoảng thời gian quý giá để quyết định các chiến lược giảm thiểu phù hợp càng sớm càng tốt và giảm nguy cơ bùng phát dịch bệnh.

Tiến lên từ EMS

EMS có thể là một loại dịch bệnh nguy hiểm, nhưng đã được kiểm chứng ở Thái Lan và Việt Nam- tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng, áp dụng nghiêm ngặt các biện pháp an toàn sinh học, và thường xuyên rà xoát lại phương thức quản lý trong các ao nuôi có thể giúp bảo vệ chống lại dịch bệnh và giảm thiểu tác động của nó nếu có xâm nhập vào trong khu nuôi. Ngành công nghiệp nuôi tôm bắt buộc phải áp dụng quan điểm phòng ngừa chủ động đối với dịch bệnh EMS/AHPDN cũng như đối với tất cả các loại mầm bệnh đã biết và chưa được biết đến. Thông qua, việc xây dựng kế hoạch chuẩn bị cho những điều xấu nhất và vận hành tốt nhất, người nuôi tôm có cơ hội cao hơn để đạt tới vụ nuôi thành công, thậm chí ở ngay tại những vùng có tỷ lệ mắc phải dịch bệnh cao.

Ngoài những thông tin tổng quan về EMS trong bài viết này, người nuôi tôm nên đọc thêm các tài liệu khác, tham gia vào trong các cuộc hội thảo trên websites trong nước và quốc tế, tham gia vào các sự kiện địa phương nơi mà họ có thể học hỏi được nhiều hơn và chia sẻ những kinh nghiệm, ý tưởng về phòng ngừa và giảm thiểu dịch bệnh.

 

Nguồn: https://thefishsite.com/articles/everything-you-need-to-know-about-ems-early-mortality-syndrome-in-shrimp-farming

Lượt dịch bởi:
 Phòng Kỹ thuật Nuôi Công Nghệ Cao – Công ty Vinhthinh Biostadt 

 

 

Trở về
Thông tin khác

Sản phẩm tiêu biểu

Hỗ trợ trực tuyến

  • Hotline Vinhthinh Biostadt - Thủy Sản Hotline Vinhthinh Biostadt - Thủy Sản Zalo - ĐT: 0912 889 542
  • Hotline Vinhthinh Biostadt- Nông Nghiệp Hotline Vinhthinh Biostadt- Nông Nghiệp Zalo - ĐT: 0915446744

HOTLINE0912.889.542

Các đối tác của chúng tôi