Năm 2018, Tổ chức Nông Lương Thế Giới (FAO) báo cáo rằng sản lượng ngành nuôi trồng thủy sản trên thế giới đã đạt mức cao nhất từ trước đến nay, đạt mức 114,5 triệu tấn, trị giá 263,3 tỷ USD doanh thu từ nông trại. Sản lượng nuôi trồng các loài giáp xác là 9,4 triệu tấn, trị giá 69,3 tỷ USD. Trong đó, 52,9% đến từ tôm thẻ chân trắng Thái Bình Dương (Litopenaeus vannamei).
Cùng với sự phát triển của ngành nuôi trồng thủy sản và nền công nghiệp đang tìm kiếm sự ổn định để hỗ trợ cho việc tăng trưởng bền vững, công việc phòng ngừa, dự báo và quản lý dịch bệnh thực sự cần thiết hơn bao giờ hết. Một trong những loại bệnh phức tạp nhất trong nghề nuôi tôm, đặc biệt là nuôi tôm thẻ chân trắng, là hội chứng tôm chết sớm (EMS), hay còn được gọi dưới tên khác là bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND).
Kể từ khi được phát hiện vào năm 2009, bệnh EMS/AHPND đã trở thành một trong những thách thức chính trong nghề nuôi tôm. Sau khi được phát hiện ở Trung Quốc, EMS đã lây lan ra rất nhiều các quốc gia khác trong khu vực Đông Nam Á. Do tỷ lệ chết cao, rất nhiều quốc gia sản xuất tôm khị bị ảnh hưởng bởi EMS/AHPND đã giảm đáng kể sản lượng và doanh thu xuất khẩu.
Trong bài viết này sẽ đi sâu vào tìm hiểu về dịch bệnh EMS/AHPND là gì? Các thiệt hại do nó gây ra và các biện pháp khác nhau để ngăn ngừa và chống lại sự bùng phát của EMS.
EMS/AHPND là gì?
Vào năm 2009, đã có một đợt bùng phát dịch bệnh nghiêm trọng làm gây ra tỷ lệ chết cao ở tôm thẻ chân trắng (L. Vannamei) và tôm sú (P. monodon) ở miền nam Trung Quốc. Ban đầu, các nhà nghiên cứu gọi bệnh này là Hội chứng tôm chết sớm (EMS) hay Hội chứng hoại tử gan tụy cấp tính (AHPNS). Đến năm 2010, số lượng các trang trại nuôi tôm ở Trung Quốc bị ảnh hưởng tăng lên nhiều hơn, và đến năm 2011, EMS/AHPND đã được phát hiện ở Việt Nam và Malaysia. Căn bệnh này cũng được xác nhận xuất hiện ở Thái Lan vào năm 2012.
Thời gian lúc ban đầu, các nhà khoa học cũng gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm ra nguyên nhân của EMS/AHPNS. Đã có một số giả thuyết về các chất độc trong môi trường và các tác nhân lây nhiễm, nhưng các nghiên cứu sau đó về lĩnh vực này đều không mang đến thành công.
Hình 1: Tôm giống thẻ chân trắng, L. vannamei, có dấu hiệu nhiễm bệnh EMS/AHPND (nguồn: Giáo sư D.V. Lightner)
Câu đố trên cuối cùng cũng được giải quyết vào năm 2013 dưới một phát hiện đột phá từ nghiên cứu được thực hiện bởi Loc Tran và cộng tác viên, khi tìm ra nguyên nhân gây bệnh do một loài vi khuẩn, Vibrio parahaemolyticus, loài này có mặt ở khắp nơi trong môi trường nước trong ao nuôi. Cộng với những hiểu biết rõ hơn về các tác nhân gây lây nhiễm bệnh, một tên gọi phù hợp hơn cho EMS/AHPND được đề xuất, đó là bệnh hoại tử gan tụy cấp tính (AHPND).
AHPND ảnh hưởng đến con giống và ấu trùng của loài tôm thẻ và tôm sú, với khả năng gây chết hoàn toàn, 100%, trong vòng từ 10 đến 35 ngày sau khi ương. Loài vi khuẩn, V. parahaemolyticus, loài được tìm thấy trong môi trường tự nhiên tại các vùng nước cửa sông và ven biển và có tiềm ẩn nguy cơ gây bệnh EMS/AHPND, có chứa 02 loại gen gây hại, Pir A và Pir B. Ngoài ra cũng có một số loài vi khuẩn khác không thuộc chủng V. parahaemolyticus, như V. campbellii, V. harveyi, V. owensii và V. punesis cũng được phát hiện có chứa các mã gen độc hại và cũng có thể gây ra bệnh EMS/AHPND. Trong các vùng có độ an toàn sinh học thấp, các loài vi khuẩn trên có thể được lây lan dễ dàng giữa các ao nuôi hoặc cho các vùng nuôi xung quanh thông qua nguồn nước thải.
EMS/AHPND còn có thể được nhận biết thông qua quan sát dấu hiệu hình thể của tôm như gan và tụy có màu nhạt, bị teo một phần hoặc toàn phần, vỏ mềm, ruột chỉ đầy một phần hoặc trống trơn hoàn toàn. Tuy nhiên, để xác định chính xác bệnh, cần phải tiến hành kiểm tra mô bệnh học trong phòng thí nghiệm. Trong giai đoạn cấp tính, tôm bị nhiễm AHPND sẽ có biểu hiện bong tróc các tế bào biểu mô hình ống trong gan và tụy, như trong Hình 2.
Hình 2: Sự bong tróc các tế bào biểu mô hình ống trong gan và tụy của con giống tôm thẻ chân trắng (nguồn: Giáo sư D.V. Lightner)
Các trang trại sản xuất giống là một trong những nguồn lây nhiễm chính của EMS/AHPND – sự lây truyền giữa các ấu trùng tôm bị nhiễm bệnh có thể gây ra hiện tượng tôm chết hàng loạt sớm nhất là 14 ngày sau khi ương. Bệnh cũng có thể được lây lan qua hình thức ô nhiễm chéo – nơi mầm bệnh xâm nhập vào trong các ao nuôi qua các thiết bị, giày/chân, các loài chim hoặc cua – hoặc chúng không được loại bỏ hoàn toàn mà vẫn còn lưu trữ từ quy trình nuôi lần trước đó của ao. Tôm có thể dễ dàng bị nhiễm bệnh hơn trong một số điều kiện môi trường thuận lợi cho sự sinh sôi và phát triển của các loài vi khuẩn. Các yếu tố này có thể bao gồm:
Tăng cường diện tích khu vực xử lý nước.
Giảm kích thước các ao nuôi.
Ống thu gom trung tâm.
Tăng cường sục khí
Sơ đồ 3: Thị trường sản xuất tôm Thái Lan, 2012-2022E (nguồn: BCG, 2019)
Các biện pháp hữu hiệu cho quản lý dịch bệnh EMS/AHPND
Không có bất kỳ một cách khắc phục nhanh chóng nào cho dịch bệnh EMS/AHPND – khi một trang trại bị nhiễm bệnh, biện pháp quản lý đưa ra cần được xem xét rất kỹ lưỡng. Trong trường hợp xấu nhất có thể xảy ra, người nuôi tôm nên chuẩn bị kế hoạch thu tất cả các ao tôm trong thời gian ngắn nhất. Điều này bắt buộc sự cam kết rất rõ ràng trong toàn bộ các thành viên trong nhóm để thực hiện nghiêm ngặt các biện pháp an toàn sinh học và thông qua giai đoạn khử trùng để ngăn ngừa dịch bệnh và tránh sự lây lan trong tương lai.
An toàn sinh học là một khái niệm dùng để thể hiện sự ngăn ngừa sự ảnh hưởng của các loại dịch bệnh và ngăn chặn sự lây lan của chúng ra các khu vực xung quanh. Có hai phương thức tiếp cận chủ yếu trong các biện pháp thực hiện an toàn sinh học – ngăn chặn, loại trừ các loại mầm bệnh và các biện pháp nhằm loại bỏ các mầm bệnh. Chúng ta có thể chế ngự dịch bệnh EMS/AHPND bằng cách ngăn ngừa sự lây lan của chúng và cung cấp các điều kiện nuôi tốt hơn để tăng sức đề kháng của tôm đối với loại dịch bệnh này.
Dưới đây là một số biện pháp thực hành hữu hiệu để chế ngự dịch bệnh EMS/AHPND tại các trang trại bị nhiễm bệnh, bao gồm tất cả các khâu trong quy trình sản xuất giống và nuôi.
Chuẩn bị cho quy trình nuôi
Con giống, PL, cần được sinh ra từ nguồn gốc tôm bố mẹ không bị nhiễm AHPND. Sức khỏe tổng thể của tôm giống nên được kiểm tra thật kỹ trước khi thả giống, bao gồm việc áp dụng các biện pháp ‘shốc’.
Toàn bộ các trang thiết bị nên được khủ trùng trước khi thả giống. Việc sử dụng kết hợp nhiều chất khử trùng khác nhau có thê giúp loại bỏ được các vật trung gian truyền bệnh.
Các ao nuôi thương phẩm nên được lót bạt, HDPE để dễ dàng vệ sinh và kiểm soát môi trường tốt hơn.
Trước khi thả giống, ao nuôi thương phẩm nên được phơi khô hoàn toàn. Nguồn nước cũng nên được chuẩn bị sẵn sàng cho khoảng 10 – 15 ngày trước khi thả tôm.
Một kế hoạch về an toàn sinh học nên được áp dụng và xem xét lại sau mỗi quy trình nuôi.
Bảo vệ khu nuôi khỏi sự xâm nhập từ các loài sinh vật bên ngoài, chẳng hạn như sử dụng các thiết bị ngăn chặn sự di chuyển của loài cua.
Để tránh bị nhiễm khuẩn, nên thả giống đồng thời tại cùng một khu vực. Nên thả vào khu vực có tổng số lượng vi khuẩn Vibrio ít hơn 1 x 10^3 CFU/ml – tức là tại địa điểm mà tổng số lượng của loài này chiếm ít hơn 1% trên tổng số lượng vi khuẩn có trong ao nuôi.
Giảm thiểu EMS trong quá trình nuôi thương phẩm
Khi có dấu hiệu ban đầu của dịch bệnh, ngay lập tức bắt buộc phải xây dựng và ban hành một kế hoạch quản lý phù hợp. Khi nghi ngờ có mầm bệnh, nên kiểm tra mẫu trong các phòng thí nghiệm chứng thực.
Các giải pháp dài hạn đối với EMS: Cơ sở hạ tầng và công nghệ
Việc đảm bảo các trang, thiết bị và cơ sở hạ tầng phù hợp cho các trang trại sẽ giúp quá trình duy trì các biện pháp an toàn sinh học và ngăn ngừa các loại mầm bệnh được thực hiện dễ dàng hơn, qua đó có thể mang lại nguồn lợi nhuận tài chính ổn định hơn. Cơ sở hạ tầng cần thiết để duy trì an toàn sinh học và bảo vệ chống lại mầm bệnh bao gồm: tấm lót bạt, HDPE, các khu vực vệ sinh chân, tay và các phương tiện chuyên dụng cũng như hàng rào và lưới để ngăn chặn sự xâm nhập của con người và động vật vào trong khu nuôi.
Các điều kiện cơ sở hạ tầng quan trọng khác bao gồm hệ thống đầu vào và đầu ra chuyên dụng của nước, hệ thống thoát nước trung tâm, các ao chứa nước tiền xử lý với lưu lượng tối thiểu bằng 30% thể tích của ao nuôi thương phẩm, sau xử lý, sục khí với máy có công suất 10 mã lực trên diện tích ao 1000 m2 với vòng hoàn lưu nước tốt, giai đoạn ương, thiết bị lưu trữ và một phòng thí nghiệm cơ bản tại chỗ với chế độ ánh sáng đủ mạnh cho quá trình giải phẫu và phân tích các chỉ tiêu môi trường nước cơ bản.
Ngoài ra cũng còn có các nhóm ngành công nghệ nổi bật mới có thể nâng cao khả năng tìm kiếm, phát hiện và cho phép quản lý tốt hơn đối với các loại mầm bệnh. Ngành công nghệ gen đang tạo ra những thay đổi đột biến trong việc phát hiện ra các loại dịch bệnh bằng cách cung cấp một phương thức mới giúp phát hiện các loại vi khuẩn gây bệnh và mật độ của chúng bằng Công Nghệ Tôm Đa Tuyến (Shrimp Multipath Technology). Tại đó, các xét nghiệm có thể phát hiện tối đa 10 ngày trước khi tôm có các dấu hiệu bệnh lâm sàng và có thể dẫn đến nguy cơ chết hàng loạt sau đó – giúp người nuôi có khoảng thời gian quý giá để quyết định các chiến lược giảm thiểu phù hợp càng sớm càng tốt và giảm nguy cơ bùng phát dịch bệnh.
Tiến lên từ EMS
EMS có thể là một loại dịch bệnh nguy hiểm, nhưng đã được kiểm chứng ở Thái Lan và Việt Nam- tăng cường đầu tư vào cơ sở hạ tầng, áp dụng nghiêm ngặt các biện pháp an toàn sinh học, và thường xuyên rà xoát lại phương thức quản lý trong các ao nuôi có thể giúp bảo vệ chống lại dịch bệnh và giảm thiểu tác động của nó nếu có xâm nhập vào trong khu nuôi. Ngành công nghiệp nuôi tôm bắt buộc phải áp dụng quan điểm phòng ngừa chủ động đối với dịch bệnh EMS/AHPDN cũng như đối với tất cả các loại mầm bệnh đã biết và chưa được biết đến. Thông qua, việc xây dựng kế hoạch chuẩn bị cho những điều xấu nhất và vận hành tốt nhất, người nuôi tôm có cơ hội cao hơn để đạt tới vụ nuôi thành công, thậm chí ở ngay tại những vùng có tỷ lệ mắc phải dịch bệnh cao.
Ngoài những thông tin tổng quan về EMS trong bài viết này, người nuôi tôm nên đọc thêm các tài liệu khác, tham gia vào trong các cuộc hội thảo trên websites trong nước và quốc tế, tham gia vào các sự kiện địa phương nơi mà họ có thể học hỏi được nhiều hơn và chia sẻ những kinh nghiệm, ý tưởng về phòng ngừa và giảm thiểu dịch bệnh.
Nguồn: https://thefishsite.com/articles/everything-you-need-to-know-about-ems-early-mortality-syndrome-in-shrimp-farming
HOTLINE0912.889.542