1. Vermiform không phải là một sinh vật
a. Vermiform là thuật ngữ khoa học tiếng Anh được cấu thành từ từ gốc tiếng Latin gồm vermes có nghĩa là giun và formes là được tạo thành dạng.
b. Vermiform có phải là sinh vật ?
Kính hiển vi điện tử truyền qua (TEM) cho thấy:
- Màng ngoài không thành lớp của các nhóm hình như con giun không giống với một màng sinh chất hoặc lớp ngoài của bất kỳ nhóm nguyên sinh động vật (gregarine), sinh vật đơn bào (protozoa) hoặc sinh vật đa bào (metazoa) nào khác được biết đến
- Các bào quan dưới tế bào như ty thể, nhân, mạng lưới nội chất và ribosome đều không có.
Như vậy Vermiform là “vật thể” có hình dạng giống như giun mà không phải là một sinh vật, đó không phải là ký sinh trùng như một số tài liệu trong nước trước đây đã đề cập đến.
Do sự hiểu lầm này mà nhiều nơi vẫn đang gọi Vermiform là giun sán, do vậy các sản phẩm “xổ giun sán Vermiform” là hoàn toàn sai lầm và không có lợi ích gì cho tôm.
2. Vậy Vermiform do đâu và quan sát bằng cách nào
- Nghiên cứu mô tả Vermiform được hình thành do sự tróc ra, chuyển dạng và cuộn lại của các vi nhung mao (microvilli) của tế bào biểu mô ống gan tụy (Aggregated Transformed Microvilli: ATM).
- Bên trong ATM có chứa vật thể giống cấu trúc nang bào tử, về sau này được xác định là tế bào biểu mô gan tụy bị hoại tử và bong tróc.
- Từ gan tụy Vermiform sẽ xuống ruột và tích tụ dày đặc ở đó.
Khi quan sát dưới kính hiển vi, Vermiform có hình dạng, kích cỡ và màu sắc khá tương đồng với kí sinh trùng gregarine. Tuy nhiên Vermiform không có cấu trúc nhân tế bào và bộ phận bám E (Epimerite) như kí sinh trùng gregarine.
Vermiform có hình giống nang bào tử hay hình giống kí sinh trùng Gregarine được tìm thấy trong gan tụy và dày đặc trong chất chứa đường ruột, đồng thời giọt dầu ít từ các mẫu gan tụy này, được quan sát qua kính hiển vi chụp bởi Lab Vinhthinh Biostadt.
- Bằng mắt thường thì không thể quan sát được Vermiform vì nó nằm trong lòng ống gan tụy. Chỉ ở những trường hợp tôm bị bệnh nặng dần chuyển sang hội chứng phân trắng thì Vermiform sẽ dày đặc ở ruột thì mới quan sát được thông qua các sợi phân trắng hoặc vàng, nhẹ nổi trên nước hoặc trong vó.
Hiện nay, Vermiform có thể được phát hiện khi soi tươi mẫu gan tụy hay chất chứa ở đường ruột dưới kính hiển vi quang học, nếu nhân viên có chuyên môn đã được đào tạo về kỹ thuật quan sát này (Chỉ có nhân viên VTB được đào tạo vấn đề này)
Vinhthinh Biostadt được đào tạo về chuyên môn Lab chính xác để phát hiện Vermiform hay các ký sinh trùng gây bệnh khác.
Vermiform là một biểu hiện của quá trình bệnh lý hay biểu hiện của tổn thương gan tụy
- Nguyên nhân của ATM (Vermiform) hiện chưa rõ, nhưng sự hình thành do mất vi nhung mao (microvilli) và quá trình ly giải tế bào tiếp theo cho thấy sự hình thành của chúng là một quá trình bệnh lý.
- Quá trình này có khả năng tác động xấu đến sức tăng trưởng tôm và tỉ lệ sống, khiến tôm bị nhiễm mầm bệnh cơ hội, trong trường hợp rất nghiêm trọng có thể dẫn đến hiện tượng gọi là hội chứng phân trắng (WFS). Điều này thường xảy ra ở tôm trên 2 tháng tuổi và nó có thể đi kèm với tỷ lệ chết cao.
- Một cuộc giám sát về sự bùng phát hội chứng phân trắng (WFS) ở tôm thẻ được thực hiện từ năm 2009 - 2010 ở Thái Lan trong 25 ao từ 13 trang trại để xác định mối quan hệ giữa hội chứng phân trắng (WFS) và Vermiform Các kết quả cho thấy 96% (24/25) ao biểu hiện hội chứng phân trắng (WFS) chứa mẫu vật tôm có vermiform. Ao bị ảnh hưởng nghiêm trọng biểu hiện giảm tỷ lệ sống từ 20% - 30% so với bình thường. Tăng trưởng bình quân/ ngày (ADG) <0.1g/ ngày, so với bình thường là 0.2g/ ngày. Tỷ lệ chuyển đổi thức ăn FCR từ 1.7 – 2.5 so với bình thường 1.5.
- ATM (Vermiform) đôi khi xảy ra ở cùng với tôm bị bệnh hoại tử gan tụy cấp AHPND, bệnh khác do Vibrio và vi bào tử trùng EHP gây chậm lớn (Enterocytozoon Hepatopenaei).
3. Lời kết
a. Tóm tắt lại thì Vermiform:
- Không phải là sinh vật, không phải là giun sán trong gan tụy hay đường ruột
- Biểu hiện của tế bào biểu mô gan tụy bị hoại tử và bong tróc, một dạng bệnh lý tổn thương gan tụy
- Sự xuất hiện của chúng tác động xấu đến tôm nuôi như giảm tốc độ tăng trưởng, giảm tỷ lệ sống, đồng thời dễ nhiễm bệnh cơ hội khác, trong trường hợp rất nghiêm trọng có thể gây ra hội chứng phân trắng (WTS).
b. Vì vậy, khi phát hiện Vermiform trong gan tụy:
- Điều đầu tiên không phải “xổ Vermiform” mà giải pháp đúng đắn nhất người nuôi cần thực hiện ngay lập tức là tập trung phòng bệnh, tiêu diệt và ngăn chặn mầm bệnh xâm nhập vào hệ thống tiêu hóa. Đồng thời bổ sung các dưỡng chất giúp phục hồi và cải thiện chức năng gan tụy
- Phác đồ cơ bản xử lí vấn đề:
-
BIO MIX 5g/ kg thức ăn, 1 cữ/ ngày
-
Bổ sung MERA CID 5g/kg thức ăn, 1 cữ/ngày để kiểm soát vi khuẩn gây bệnh
-
Bổ sung AMINO 200 10-15ml/kg để phục hồi gan tụy tổn thương.
-
Trộn chung các cữ BIO MIX & MERA CID
-
Bổ sung thêm men tiêu hóa
-
Tùy theo mức độ phát hiện của Vermiform, sẽ có phác đồ điều chỉnh phù hợp.
Hãy liên hệ với chuyên viên Lab của Vinhthinh Biostadt để được phục vụ!
Thực hiện: Nguyễn Thị Kiều – Vinhthinh Biostadt
Tham khảo:
Cố vấn Nguyễn Hữu Thịnh – Khoa Thủy Sản trường Đại học Nông Lâm Tp.HCM
Siriporn Sriurairatana1, Visanu Boonyawiwat2, Warachin Gangnonngiw3, Chaowanee Laosutthipong1,4,
Jindanan Hiranchan1,4, Timothy W. Flegel1,3* White Feces Syndrome of Shrimp Arises from Transformation, Sloughing and Aggregation of Hepatopancreatic Microvilli into Vermiform Bodies Superficially Resembling Gregarines Article in PLoS ONE · June 2014
Giải pháp - Giúp ngăn chặn ký sinh trùng & kiểm soát vibrio
Nhóm sản phẩm hỗ hợ chức năng gan