FacebookZaloLinkedinYoutube
FacebookZaloLinkedinYoutube
CHUỖI CUNG ỨNG VINHTHINH BIOSTADT HƯỚNG ĐẾN PHÁT TRIỂN BỀN VỮNGBIO BL RACEWAYMAGKA POWERCANMAGKHOÁNG TẠT VI SINHMIZUPHOR POWERCLINZEX DIỆN MẠO MỚIDIỆN MẠO MỚIESOMAX - HOẠT CHẤT TINH DẦU KHÁNG SINH - GIẢI PHÁP KIỂM SOÁT BỆNH GAN TỤY VÀ PHÂN TRẮNGFANTAI TCCA - CHITA TCCAGiống tôm thẻ chân trắng VTBHWOKOZIM TỐI ƯU HÓA MỌI GIẢI PHÁPTHUỐC TRỪ SÂU SINH HỌCSản phẩm Nông NghiệpWokozim đã được sử dụng trên 40 loại cây trồng và hơn 20 quốc gia trên thế giớiLiên doanh giữa Vinhthinh & tập đoàn Biostadt -Ấn ĐộVinhthinh Biostadt

Giai đoạn ương trong nuôi tôm: Nhiều lợi ích hơn ngoài việc khống chế EMS


Sự cải tiến trong việc thiết kế hệ thống ao ương để kéo dài thời gian ương, sinh khối tôm giống cao hơn, kích thước tôm giống lớn hơn, và các kỹ thuật vận chuyển để duy trì sức khỏe của tôm giống.

Sau nhiều năm thua lỗ đáng kể do virus đốm trắng (WSSV) bùng phát, việc thực hiện áp dụng biện pháp ương tôm đã trở nên phổ biến trong ngành tôm nuôi Mexico. Trong hai năm qua, các trại nuôi tôm ở miền Nam và miền Trung Mỹ đã triển khai một hệ thống ba giai đoạn, sử dụng ương raceways trước khi thả tôm giống vào ao nuôi thương phẩm, điều này dẫn đến tăng năng suất vụ nuôi 20-30% và hạ thấp chi phí sản xuất.


 
Ao nuôi hình chữ nhật 800 -1000 tonnes trong nhà kính

Thả tôm giống (PL) sau giai đoạn ương (thường> PL45) thay vì PL10-12 trực tiếp từ các trại giống sẽ giảm thời gian trong ao nuôi thương phẩm từ 20-30 ngày và tỷ lệ chuyển đổi thức ăn (FCR) 10-30%. Tại Mexico và châu Á, điều này bây giờ là một trong những chiến lược được sử dụng để giảm thiểu hội chứng tử vong sớm (EMS) bằng cách thả tôm giống kích thước lớn vào ao nuôi thương phẩm.

Hệ thống ba giai đoạn có lợi ích đối với toàn bộ chuỗi cung cấp. Hệ thống ao ương chịu sự kiểm soát liên tục chất lượng nước và sức khỏe tôm. Thức ăn được tối ưu hoá và sử dụng hiệu quả hơn. Mục tiêu là để sản xuất tôm giống có sức đề kháng mạnh, thích nghi được với môi trường ao nuôi. Điều này dẫn đến tỉ lệ sống tốt hơn trong những ngày đầu thả nuôi và nhằm làm giảm tối đa việc bùng phát dịch bệnh. Hệ thống ao ương cho phép nhiều vụ được thực hiện luân phiên. Nông dân cần tôm giống nhiều hơn và trại giống cũng bán tôm giống nhiều hơn trong khi nông dân cũng nuôi được nhiều vụ hơn.

Hệ thống này cũng có lợi thế ở khả năng tăng trưởng của tôm thẻ chân trắng Châu Mỹ. Ở Mexico, sự tăng trưởng 7-8 g trong 30 ngày đầu tiên đã được ghi nhận với hệ thống nuôi ba giai đoạn so với 3-4 g ở  hệ thống thả nuôi bình thường. Chi phí lớn nhất trong nuôi tôm là trong giai đoạn nuôi thương phẩm. Một chu kỳ nuôi ngắn hơn có nghĩa là tiết kiệm được chi phí cho thức ăn và năng lượng.

Tuy nhiên, tất cả những điều này chỉ có thể đạt được với việc sử dụng các công nghệ thích hợp và có kiểm soát toàn bộ hệ thống. Trong hệ thống ao ương được xây dựng không phù hợp hoặc quản lý kém, kết quả là tỷ lệ tôm giống sống thấp, và mẻ tôm yếu này có thể sẽ được chuyển xuống ao nuôi.

Sự phát triển của hệ thống ao ương Mexico

WSSV cùng với những hạn chế của điều kiện thời tiết tại địa phương (Mexico có điều kiện thời tiết khắc nghiệt, nhiệt độ biến động rất cao), nông dân buộc phải sửa đổi hệ thống nuôi trồng của họ. Trong sáu tháng cuối năm, nông dân đã điều chỉnh hệ thống ao ương của họ để sử dụng chi phí hiệu quả hơn với sinh khối cao tôm cao hơn. Với mật độ nuôi cao, hệ thống này đòi hỏi không thay nước để giữ cho tất cả thông số là không đổi. Điều kiện tiên quyết là hệ thống lọc hiệu quả cao, tương tự như hệ thống lọc sử dụng trong trại giống. Ngoài vi sinh để kiểm soát chất lượng nước, siphon nước thường xuyên cũng phải được áp dụng. Mục tiêu là tôm có sức đề kháng và khoẻ mạnh hơn trước khi xuống ao nuôi thương phẩm.

Hiện nay đã có một số tiến triển trong việc thiết kế hình dạng cho các hệ thống ao ương ở Mexico. Những bể hình tròn có kích thước 50 tonnes trong năm 2008 và 2009 đã mở rộng thành bể raceways 100 tonnes trong năm 2009 và sau đó  là bể raceways lớn hơn 500 tonnes trong năm 2011.  Hiện nay có những bể hình chữ nhật có thể chứa được từ 800 đến 1000 tonnes trong nhà kính.

Kiểm soát chất lượng nước và cho ăn

Tiêu chí chính là kiểm soát chất lượng nguồn nước. Vi sinh được sử dụng theo các mục tiêu cụ thể; Ví dụ, đối với các chất hữu cơ, nồng độ probiotics là 3ppm cho mỗi 72 giờ. Trong trường hợp kiểm soát khí độc, nồng độ là 2-5 ppm cho mỗi 48 giờ và để xử lý mầm bệnh trong nước, nồng độ là 2 ppm cho mỗi 72 giờ. Các mầm bệnh trong tôm được xử lý với nồng độ vi sinh 1-4 g / kg. Tuy nhiên, cách sử dụng các loại vi sinh khác nhau được điều chỉnh tùy thuộc vào sinh khối, chất lượng nước và điều kiện sức khoẻ tôm. Mục tiêu là để duy trì các điều kiện tối ưu để giữ đàn tôm khoẻ mạnh, có khả năng tăng trưởng bình thường khi được chuyển xuống ao nuôi thương phẩm.

Trong trường hợp cho ăn, chất lượng thức ăn thấp với nhiều bụi sẽ ảnh hưởng đến chất lượng nguồn nước ao nuôi và sự tăng trưởng của tôm. Như vậy, nguồn thức ăn chất lượng cao, ít bụi nên được cân nhắc sử dụng. Người nuôi không nên tuân thủ theo một bảng cho ăn cố định. Thông thường, ít nhất 45% protein thô và năng lượng được hấp thụ trong khoảng thời gian 2 giờ. Tổng lượng thức ăn được điều chỉnh tùy thuộc vào  vó, chất lượng nước và sự tăng trưởng của đàn tôm.

Kỹ thuật vận chuyển

Vấn đề khúc mắc chính trong việc vận hành hệ thống ao ương là việc thực hiện chính xác kỹ thuật vận chuyên tôm giống. Sự chú ý tập trung chính vào kỹ thuật chuyển tôm giống xuống ao nuôi thương phẩm. Việc vận chuyển sớm đã ảnh hưởng xấu đến tỷ lệ sống của tôm. Đối với việc vận chuyển khoảng cách ngắn đến các ao liền kề, 2 kg tôm giống,  0,4 đến 1g mỗi PL, được đặt trong xô 20 kg chứa đầy nước bão hòa oxygen. Thời gian vận chuyển tối đa là 5 phút và tỷ lệ chết trong quá trình vận chuyển là 5-10%. Đối với khoảng cách xa hơn, 75-180 con / lít hay 20 đến 40 kg tôm giống được vận chuyển trong bể chứa 1000 tới 2000 lít nước bão hòa oxygen; trong điều kiện vận chuyển như vậy, tỷ lệ tôm chết cũng dao động trong khoảng 5-10%. Mức độ tôm chết sớm trong ao nuôi có liên quan trực tiếp đến tình trạng của tôm tại thời điểm chuyển vận chuyển và mức độ căng thẳng trong suốt quá trình vận chuyển. 


Quang cảnh bên ngoài của hệ thống ao ương hình cầu và phẳng
 
Từ năm 2012, kĩ thuật vận chuyển đã được thay đổi bằng cách sử dụng máy bơm để việc vận chuyển hiệu quả hơn. Điều này làm giảm căng thẳng và tỷ lệ tôm chết trong quá trình vận chuyển chỉ 3-5%. Quá trình vận chuyển đã được rút gọn do vậy tôm không bị cách ly khỏi môi trường nước quá 30-60 giây. Trong năm 2013, khoảng cách tối đa để vận chuyển tôm bằng máy bơm lên đến 3 Km từ bể ương đến ao nuôi. Khả năng vận chuyển bằng máy bơm là 15 kg tôm mỗi phút.



Bảng 1: Trọng lượng trung bình và tỷ lệ tôm sống ở các mật độ thả nuôi khác nhau trong bể ương raceways tại Mexico
 



Vận chuyển tôm sử dụng bơm ở Mexico. Theo chiều kim đồng hồ, từ trái qua, thu hoạch tôm ở nhà ương, tôm giống, vận chuyển tôm ở các bể được sục khí và tôm được vận chuyển qua các ống lớn đến ao nuôi qua khoảng cách 3 km từ ao ương. Khả năng vận chuyển với bơm là 15 kg tôm mỗi phút.

Việc vận chuyển sớm ảnh hưởng đến tỷ lệ tôm sống trong ao là rất quan trọng khi việc vận chuyển được thực hiện vào buổi sáng, buổi tối hoặc vào ban đêm. Khi lên kế hoạch cho việc vận chuyển, điều kiện sức khoẻ của tôm nên được theo dõi kĩ càng.

 
Giảm mật độ

Một phát hiện gần đây ở Mexico là việc giảm mật độ thả tôm để đạt được trọng lượng tôm giống cao hơn, cũng như tỷ lệ tôm sống cao hơn trong bể raceways. Sinh khối 6,9 kg / m3 đã ghi nhận được. Các kết quả trung bình của trọng lượng tôm và tỷ lệ sống đạt được tùy thuộc vào mật độ thả và thời gian ương được thể hiện trong Bảng 1.

Loại trừ EMS và hệ thống ao ương

Các tác động của EMS / AHPND ở Mexico rất nặng nề. Sản xuất giảm 60% vào năm 2013 và tình trạng tương tự ở Thái Lan. Nhiều vấn đề đã tác động đến nguồn tôm giống. Một số tập đoàn lớn đã tận dụng cơ sở hạ tầng raceways, và thay đổi chiến lược sản xuất bằng cách giảm mật độ tôm và kéo dài thời gian nuôi bể raceways cho tôm giống lớn hơn trước khi thả. Việc nuôi thương phẩm trong ao đã bị rút ngắn hơn nữa bằng cách thu hoạch tôm cỡ nhỏ. Điều này đã trở thành một thay thế khả thi cho ngành nông nghiệp Mexico, với giá tôm hiện tại và chu kỳ nuôi ngắn hơn với FCR tốt hơn và một cấu trúc chi phí khác nhau.

Một số ví dụ từ các trại ở ba địa điểm đã chứng minh rằng sự thay đổi chiến lược này là một lựa chọn hợp lý trong năm 2014. Tôm giống được thả nuôi trong bể 500 đến 1000 tonnes tại PL 0,6-1,8 / lít. Thời gian nuôi dao động trong khoảng 30-57 ngày để sản xuất ra con giống 3,5 đến 4,28 g. Tỉ lệ sống khá cao ở mức 87 đến 90% và tỷ lệ FCR là 1,4-1,65 tùy thuộc vào thời gian nuôi. Trong ao nuôi thương phẩm, con giống 4 g đã phát triển thành 17 g trong 30 ngày với mật độ 6 con / m2. FCR thấp ở 0,47 và tỷ lệ sống là 85%. Trong ao khác, con giống 4 g đã phát triển thành 10,4 g trong 14 ngày và FCR tổng cộng là 1,56 với tỷ lệ sống là 95%.

Những kinh nghiệm cho châu Á

Những kinh nghiệm từ Mexico đã được chuyển giao thành công đến một trang trại của Malaysia trong năm 2013-2014. Tôm giống được thả trong bể raceways 25-30 ngày để phát triển thành 1-1,5 g/ PL. Sau đó chúng được thả vào ao nuôi thương phẩm với mật độ 70-80 PL / m2. FCR trong bể raceway là 1,0-1,5 tùy theo thời gian nuôi. Trong các ao nuôi thương phẩm, tôm đã phát triển đến 17-18 g và FCR là 1,3.Tỷ lệ sống trong các ao nuôi thương phẩm là 90-95%. Vẫn còn có khả năng cải tiến được quy trình như điều chỉnh chế độ ăn, sử dụng vi sinh, và điều kiện nhiệt độ để đạt được tôm giống lớn hơn trong giai đoạn ương và FCR tốt hơn trong ao nuôi thương phẩm.

Tại Thái Lan, đã có những kết quả khác nhau. Đã có những thành công tại giai đoạn ương tôm nhưng do điều kiện sức khỏe tôm trong quá trình vận chuyển, kết quả là rất xấu trong giai đoạn nuôi thương phẩm. Những giải pháp khác nhau được đưa ra như thả vào lồng bên trong ao trong 30 ngày đầu tiên không tác động đến nền đáy. Điều này có báo cáo đã tránh được sự bùng phát EMS. Một lựa chọn khác là tách ao ra từ 20 đến 30% bằng lưới và thả vào khu vực này và thả tôm vào toàn bộ ao sau 20 đến 30 ngày. Tuy nhiên trong thực tiễn, sự tăng trưởng bù là không xảy ra như khi tôm trong cùng một ao.

Ở Việt Nam, việc thực hiện các hệ thống ao ương bị cản trở bởi sự đầu tư thấp và công nghệ cũng như an toàn sinh học kém. Một ví dụ thành công đã được báo cáo ở miền Trung Việt Nam nhưng tình trạng tôm yếu trong quá trình vận chuyển đã không mang lại kết quả tốt trong các ao nuôi thương phẩm. Chất lượng tôm giống kém cũng phụ thuộc vào chất lượng nước kém từ việc sử dụng nguồn thức ăn thay thế trong giai đoạn ương.


 
Một ví dụ của hệ thống lọc hiệu suất cao

Phần kết luận

Trong thời gian bị thách thức với sự hiện diện của các bệnh mới và điều kiện môi trường bất lợi, ngành nông nghiệp cần phải thay đổi và sử dụng các công cụ mới. Kể từ khi các tác nhân gây bệnh EMS / AHPND là Vibrio, hệ thống ao ương đã cho phép nông dân tập trung hơn vào việc kiểm soát vi khuẩn Vibrio trong một khu vực nhỏ hơn và trì hoãn các tác nhân gây bệnh phát tác.

Với giá tôm cao, cao hơn năm 2000 khoảng 27%, và được dự kiến ​​sẽ vẫn tiếp tục cao trong vài năm tới, nông dân ở châu Á nên sử dụng cơ hội này để đầu tư và sử dụng các công nghệ mới đã được chứng minh phù hợp cho các tình huống của họ. Thay vì phát minh ra phương pháp mới, nông dân nên áp dụng các phương pháp của Mỹ Latin và điều chỉnh cho phù hợp với châu Á. Bằng cách này, chúng ta có thể di chuyển đi từ thủ công để kiểm soát nuôi tôm bền vững hơn. Những lợi ích của việc thực hiện nuôi tôm ba giai đoạn cũng vươt xa ngoài việc khống chế EMS / AHPND. Nó cải thiện năng suất và giảm chi phí mà không cần gây thêm áp lực trong hệ thống sản xuất.

Ngày nay, giá tôm đã giảm sớm hơn dự kiến ​​nhưng vẫn ở một mức độ hợp lý. Hai chi phí lớn nhất trong các trang trại nuôi tôm là nguồn thức ăn và thời gian nuôi. Việc triển khai áp dụng hệ thống này có tác động trực tiếp đáng kể đến cả hai yếu tố và do đó sẽ giúp nông dân giảm thiểu rủi ro và nâng cao lợi nhuận của họ.


Nguồn: Nursery phase in shrimp farming: Benifits beyond EMS, AQUA CULTURE ASIA PACIFIC MAGAZINE, Tháng 03 - 04/2015

Người dịch: KS. ĐỖ NGỌC TUẤN - CÔNG TY VINHTHINH BIOSTADT


 
Trở về
Thông tin khác

Sản phẩm tiêu biểu

Hỗ trợ trực tuyến

  • Hotline Vinhthinh Biostadt - Thủy Sản Hotline Vinhthinh Biostadt - Thủy Sản Zalo - ĐT: 0912 889 542
  • Hotline Vinhthinh Biostadt- Nông Nghiệp Hotline Vinhthinh Biostadt- Nông Nghiệp Zalo - ĐT: 0915446744

HOTLINE0912.889.542

Các đối tác của chúng tôi