Như chúng ta đã biết, chi phí thức ăn trong nuôi tôm chiếm khoảng 40 – 60% tổng chi phí lưu động toàn vụ nuôi, thức ăn dư thừa sẽ dẫn đến nhiều vấn đề nghiêm trọng khác nhau sau đó, chính vì thế chúng ta thường tập trung việc quản lý cho ăn sau khi thả tôm. Người nuôi có nhiều kinh nghiệm trong vấn đề này và phần lớn đều quản lý cho ăn khá tốt.
Từ năm 2010 đến nay, dịch bệnh diễn ra thường xuyên hơn, tuy nhiên cũng có nhiều trang trại nuôi thành công, ít bị dịch bệnh và tình trạng khí độc NO
cao. Các thống kê sơ bộ chỉ ra rằng, phần lớn những trang trại, ao nuôi có tần suất thành công cao trong thời gian qua đều có hệ thống cung cấp oxy rất tốt, bố trí đúng cách và quản lý chúng rất hiệu quả.
Hàm lượng oxy thấp dẫn đến nhiều khó khăn và làm cho vụ nuôi khó thành công hơn như chúng ta kỳ vọng.
Bên dưới là những bảng số liệu cho thấy ảnh hưởng của hàm lượng oxy đến tốc độ bắt mồi, tăng trưởng và tỷ lệ số của tôm chân trắng.
Bảng: Ảnh hưởng của hàm lượng oxy hòa tan đến tốc độ bắt mồi của tôm chân trắng
Hàm lượng oxy hòa tan (ppm) |
% thức ăn còn lại |
Thời gian (phút) à |
15 |
30 |
45 |
60 |
> 4 (ppm) |
21.03 |
2.60 |
0 |
0 |
2 – 4 (ppm) |
56.10 |
13.22 |
0 |
0 |
< 2 (ppm) |
84.28 |
73.31 |
59.27 |
45.27 |
Nguồn: The importance of dissolved oxygen in Pacific white shrimp culture – Dr.Chalor Limsuwan
Thí nghiệm trên cho thấy hàm lượng oxy càng thấp thì tốc độ bắt mồi của tôm càng chậm. Chẳng hạn với hàm lượng oxy trên 04 ppm, sau 60 phút, tôm ăn hết thức ăn. Với hàm lượng oxy thấp hơn 02 ppm, sau 60 phút lượng thức ăn còn thừa lại đến 45.27%. Hàm lượng oxy trong ao đầy đủ tôm sẽ bắt mồi nhanh hơn, chính vì thế trong những ao nuôi tôm có hệ thống cung cấp oxy tốt, tôm thường ăn nhanh và hết vó trước thời gian kiểm tra vó qui định mặc dù lượng thức ăn trong ngày (hoặc cữ ăn) đã được tính toán chính xác. Trong trường hợp này, nếu người nuôi nghĩ rằng tôm thiếu thức ăn và cung cấp thêm nhiều thức ăn hơn trong lần cho ăn kế tiếp hoặc ngày hôm sau thì lượng thức ăn sẽ trở nên dư thừa. Vì vậy, nếu như đã tính toán lượng thức ăn đúng thì người nuôi không cần phải gia tăng lượng thức ăn thêm nữa.
Bảng: Ảnh hưởng của oxy hoà tan đến tốc độ tăng trưởng của tôm chân trắng
Ngày tuổi |
Tỷ lệ sống (%) |
Hàm lượng oxy hòa tan à |
D.O > 4 ppm |
D.O 2 – 4 ppm |
D.O < 2ppm |
0 |
7.67 |
7.62 |
7.68 |
10 |
10.40 |
9.54 |
8.91 |
20 |
12.8 |
11.74 |
11.05 |
30 |
16.0 |
15.64 |
14.32 |
40 |
18.94 |
18.12 |
17.22 |
50 |
25.26 |
23.13 |
23.01 |
60 |
28.16 |
25.01 |
25.90 |
Nguồn: The importance of dissolved oxygen in Pacific white shrimp culture – Dr.Chalor Limsuwan
Hàm lượng oxy càng cao thì tốc độ tăng trưởng của tôm nuôi càng nhanh. Việc duy trì DO đầy đủ và ổn định càng có ý nghĩa ở giai đoạn sau của vụ nuôi. Thí nghiệm trên được thực hiện với tôm nuôi có trọng lượng ban đầu khoảng 7,6 gram/con. Ở điều kiện DO > 04 ppm và DO = 02 – 04 ppm, tốc độ tăng trưởng của tôm nuôi sau 30 ngày thử nghiệm lần lượt là 16,0 gram/con và 15,64 gram/con, khác biệt này không lớn lắm, tuy nhiên ở ngày thứ 60, tốc độ tăng trưởng khác biệt đáng kể, tôm nuôi đạt trọng lượng bình quân 28,16 gram/con ở điều kiện DO > 04 ppm và chỉ đạt 25,01 gram/con ở điều kiện DO = 02 – 04 ppm.
Bảng: Ảnh hưởng của oxy hoà tan đến tỷ lệ sống của tôm chân trắng
Ngày tuổi |
Trọng lượng trung bình (g) |
Hàm lượng oxy hòa tan à |
D.O > 4 ppm |
D.O 2 – 4 ppm |
D.O < 2ppm |
0 |
100 |
100 |
100 |
10 |
100 |
97.78 |
84.44 |
20 |
97.78 |
93.33 |
76.67 |
30 |
97.78 |
90.00 |
65.56 |
40 |
93.33 |
84.44 |
65.56 |
50 |
93.33 |
80.11 |
60.00 |
60 |
92.22 |
81.11 |
56.67 |
Nguồn: The importance of dissolved oxygen in Pacific white shrimp culture – Dr.Chalor Limsuwan
Hàm lượng oxy càng cao thì tỷ lệ sống của tôm càng cao. Hàm lượng oxy ảnh hưởng rõ rệt đến tỷ lệ sống của tôm nuôi ngay trong 10 ngày đầu tiên và càng khác biệt vào giai đoạn sau của vụ nuôi. Tôm chân trắng lột xác thường xuyên để tăng trưởng, khi lột xác tôm cần hàm lượng oxy cao gấp đôi so với bình thường, chính vì thế nếu oxy không được cung cấp đầy đủ thì tỷ lệ sống sẽ giảm đáng kể và giảm càng nhanh khi bước vào tháng nuôi thứ hai trở đi. Khó khăn khác là tôm thường lột xác vào ban đêm, giai đoạn từ 22 – 24 giờ, thời điểm này cũng là thời điểm hàm lượng oxy trong ao xuống thấp, do đó hệ thống cung cấp oxy cần đảm bảo hoạt động tốt, lắp đặt đúng cách và việc kiểm tra oxy vào ban đêm trở nên rất quan trọng để duy trì tỷ lệ sống cao.
Một ảnh hưởng quan trọng khác của hàm lượng oxy hòa tan đã được kiểm chứng là khi DO đạt yêu cầu trong suốt vụ thì các tế bào máu trong tôm sẽ được sản sinh nhiều hơn và hệ thống đáp ứng miễn dịch trong huyết tương sẽ hoạt động hiệu quả hơn, chính vì thế mà tôm sẽ ít mắc bệnh hơn.
Đối với những ao nuôi có mật độ tảo phát triển dày đặc, ban ngày DO có thể đạt đến 10 ppm, tuy nhiên ban đêm DO sẽ giảm rất nhanh, đôi khi chỉ đạt mức từ 2 – 3 ppm vào sáng sớm. Một yếu tố khác cần lưu ý là nhiệt độ và độ mặn càng cao thì hàm lượng oxy hoà tan càng thấp.
Người nuôi cũng cần phải lưu ý rằng, khi tôm nổi đầu vào sáng sớm - hoặc cũng có thể nổi đầu vào thời điểm khác trong ngày – thì điều đó có nghĩa là hàm lượng oxy hoà tan trong ao đang rất thấp (dưới 02 ppm), hàm lượng oxy hòa tan ở mức 02 – 03 ppm không làm cho tôm nổi đầu, chúng chỉ làm cho tôm nuôi chậm lớn, thậm chí rất chậm lớn, trong trường hợp này nếu người nuôi không kiểm tra hàm lượng oxy hoà tan thì sẽ thường nghĩ đến các nguyên nhân khác như cho ăn thiếu, giống không tốt…và tiến hành nhiều biện pháp xử lý khác nhau, tuy nhiên hầu hết đều không có kết quả như mong muốn.