Tóm tắt
Nuôi tôm trong nội địa độ mặn thấp phổ biến rộng rãi trong nhiều vùng trên toàn thế giới. Nhờ có khả năng tăng trưởng và sống trong môi trường độ mặn thấp, tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei Boone) đang trở thành loài nuôi ở độ mặn thấp. Các kỹ thuật điều hòa đã được phát triển để cải thiện khả năng điều hòa hoạt động của tôm nuôi ở vùng nước có độ mặn thấp.
Các kỹ thuật này đã đánh giá phương thức cải thiện nguồn nước có độ mặn thấp được sử dụng cho sản xuất bằng cách thêm kali và magiê và các bổ sung trong công thức thức ăn liên quan để thể cải thiện khả năng điều hòa thẩm thấu. Dựa trên kinh nghiệm của chúng tôi cũng như những gì chúng tôi chủ yếu được tìm thấy trong các tài liệu, có vẻ như sự điều chỉnh môi trường nước với kali và magiê có hiệu quả hơn các kỹ thuật về các bổ sung trong thức ăn để cải thiện sự tăng trưởng, tỷ lệ sống và khả năng điều hòa thẩm thấu của tôm thẻ nuôi ở độ mặn thấp.
Nguồn nước
Đất nhiễm mặn xuất hiện ở các vùng khô hạn ở hơn 100 quốc gia và nước mặt và nước ngầm ở những khu vực như vậy thường có độ mặn hơn 1 g/L (Keren 2000). Nước ngầm nhiễm mặn có thể cũng xảy ra ở vùng có lượng mưa lớn hơn là kết quả của sự lắng đọng muối, kết tụ nước nguồn gốc từ biển và xâm nhập mặn ở các vùng ven biển (Cook 1997; Boyd và ctv. 2009). Hầu hết các nỗ lực để nuôi tôm trong ao nội địa đã tập trung vào việc sử dụng nước ngầm mặn.
Ví dụ, ở Mỹ nước ngầm mặn có thể tìm ở bên dưới ở hai phần ba của quốc gia (Feth 1970). Smith và Lawrence (1990) chứng minh tôm biển có thể nuôi thành công trong ao cung cấp nước ngầm mặn và nước ngọt để duy trì một độ mặn 25 g/L Nuôi tôm biển nội địa sử dụng nước ngầm mặn với độ mặn 1-15 g/L trở nên phổ biến ở Mỹ với các trang trại ở Florida, Alabama, Texas, Arizona và những bang khác. Một số trang trại này đã hoạt động hơn 10 năm.
Một số lượng lớn nông dân ở Ecuador khởi xướng dự án nuôi tôm biển bằng nước giếng nhiễm mặn tại các địa điểm cách hơn 100 km vào đất liền gần Palestine ở tỉnh Guayas (Boyd 2002). Mặc dù tỷ lệ sống và tăng trưởng tốt của tôm là khả thi, phần lớn các cơ sở này không còn hoạt động. Đã có nhiều báo cáo khác nhau về sản lượng tôm nuôi bằng nước giếng ngầm ở Brazil (Nunes & Lopez 2001) và ở các quốc gia Nam Mỹ khác, nhưng không có tài liệu hiện trạng của các sử dụng nước ngầm để nuôi tôm ở các quốc gia này có thể được tìm thấy.
Ở Thái Lan, một cách tiếp cận khác là sử dụng nước có độ mặn thấp để nuôi tôm nội địa. Nước ót từ vùng ven biển, nước biển bay hơi được pha với nước ngọt, nước ót được thu hoạch trong ao trước khi đạt đến độ mặn 250 g/L khi mà kết tủa natri clorua xảy ra (Limsuwan et al. 2002). Muối từ nước biển bay hơi cũng có thể được bổ sung vào các ao ở Thái Lan để tăng độ mặn. Nước ao ở đó thường có độ mặn 2–5 g/L, một điều kiện tuyệt vời để tôm thẻ phát triển (Boyd et al. 2002).
Vị trí của nước nước ngầm mặn
Một khảo sát về thành phần ion của nước ở các vùng nuôi tôm trong nội địa độ mặn thấp cho thấy các tỷ lệ của các ion chính là tương tự với tỉ lệ trong nước biển thông thường ở Thái Lan nơi nước ót được dùng để nâng độ mặn. Một cách tự nhiên, nước mặt nhiễm mặn và nước ngầm thường có tỷ lệ ion khác nhau so với nước biển pha loãng đến các độ mặn tương tự vì sự kết tủa khác nhau của các muối khi nước bay hơi và sự mất đi của ion qua phản ứng với đất và các vật chất địa chất khác (Gong et al. 2004).
Vì vậy, nó là không phải thật ngạc nhiên khi ao nuôi cấp bằngnước ngầm mặn ở Trung Quốc, Ecuador và Mỹ là hoàn toàn khác nhau về tỷ lệ ion khi so sánh với nước biển. Nước ngầm mặn có xu hướng thấp về thành phần kali, magiê và sunfat so với nồng độ mong đợi trong nước biển pha loãng ở các độ mặn tương tự (Boyd et al. 2002; Boyd & Thunjai 2003; Saoud et al. 2003).
Bảng 1 Các yếu tố đã sử dụng để ước tính nồng độ các ion có thể chấp nhận được cho nuôi tôm nội địa độ mặn thấp
-
Ví dụ: Na (mg/L) = 304,5 (độ mặn g/L).
-
Độ kiềm không nên dưới 75 mg/L, tương đương 92 mg/L đối với độ kiềm bicacbonat.
Bảng 2 Nồng độ của độ mặn, độ kiềm và các ion chính trong nước giếng cung cấp cho ao nuôi ở Alabama và những thay đổi về nồng độ trong ao nước tại đây vào cuối tháng 4 trước khi K và Mg được bổ sung
Có bằng chứng từ thử nghiệm ngắn trong môi trường bể nuôi bổ sung cả kali và magiê vào nước giếng sẽ cải thiện tỷ lệ sống và phát triển của PL (Davis et al. 2005; Roy et al. 2007a). Roy et al. (2007a) báo cáo sự gia tăng tăng trưởng của tôm khi kali được nâng lên ở các vùng nước có độ mặn thấp. Đến nay, một số các tác giả có thiết lập rằng khi nuôi tôm và các loài sinh vật biển khác ở vùng nước có độ mặn thấp, điều quan trọng là duy trì tỷ lệ natri: kali (Na: K) ở mức tương tự nước biển pha loãng đến các độ mặn tương tự ((Fielder et al. 2001; Davis và ctv. 2004; Zhu và ctv. 2004; Roy và ctv. 2007a).
Một nghiên cứu gần đây ở Thái Lan cho thấy rằng nền đáy ao nhanh chóng lấy đi magiê khỏi nước ao có bổ sung nước ót. Định kỳ bổ sung magiê clorua để duy trì lượng magiê ở trên 100 mg/L) Trong ao với độ mặn của 1–6 g/L cho kết quả tỷ lệ sống và sản lượng tăng đáng kể (Idsariya Wuditisin, trao đổi cá nhân 2010).
Độ kiềm trong ao nên được duy trì ở 75 mg/L hoặc cao hơn để cung cấp khả năng đệm đầy đủ, bất kể độ mặn; tương đương với độ kiềm 90 mg/L bicacbonat trong nước với độ pH thấp hơn 8,3 (Boyd & Tucker 1998). Nồng độ thấp của các ion khác có thể tác động tiêu cực đến tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm ở một mức độ thấp hơn, nghiên cứu xa hơn nữa là cần thiết. Tuy nhiên, thực tiễn trải qua cho thấy rằng bổ sung kali một mình cung cấp đầy đủ sự điều hòa của các ion mất cân bằng trong nhiều ao dùng nước ngầm từ giếng nước hoặc các nguồn khác.
Kali và magiê hấp thu qua đất
Kali và magiê bổ sung vào ao thường bị mất do tràn, thấm, thoát nước khi thu hoạch, đất hấp thu và con tôm hấp thu. Tuy nhiên, Boyd et al. (2007a) nhận thấy rằng nồng độ kali có thể trao đổi trong nền đáy không tăng đáng kể sau vụ nuôi đầu tiên. Vì vậy, sự mất kali, và magiê, là có liên quan đến đất hơn là quá trình trao đổi ion khác.
Điều hòa thẩm thấu của tôm trong nước có độ mặn thấp
Mặc dù điều hòa thẩm thấu là một tổ hợp quá trình sinh lý liên quan đến bề mặt cơ thể, hệ tiêu hóa, mang và cơ quan thận, hầu hết điều hòa natri (Na+ ) và clorua (Cl- ) diễn ra ở mang (Mantel & Farmer 1983; Pequeux 1995). Khi giáp xác nước lợ nuôi ở độ mặn thấp, tính thấm cơ thể giảm, nước bài tiết thông qua thận tăng và các chất thẩm thấu trong dịch cơ thể được điều chỉnh để giảm sự khác biệt giữa môi trường và haemolymph (Pequeux 1995). Khi tính thẩm thấu haemolymph giảm, vì cũng giảm ở các tế bào, gây ra chúng trương lên. Sự trương lên sau đó làm giảm không gian gian bào gây ra tăng trong trương lực điều đó dẫn đến làm chậm quá trình nước đi vào cơ thể.
Tăng trưởng và tỷ lệ sống của tôm ở nước ngầm độ mặn thấp ở Alabama bị ảnh hưởng chủ yếu bởi nồng độ kali trong nước và magie ở một mức độ nhẹ hơn (Davis và ctv 2002; Saoud et al 2003; McNevin và ctv. 2004).
Tuy nhiên, nước độ mặn thấp trong cùng nội địa không có cùng tỷ lệ ion như ở nước biển, thường có nồng độ kali và magie thấp. Điều này dẫn đến sự gia tăng hoạt động bơm Natri-Kali, chậm tăng trưởng và gây chết. Vì L. vannamei có thể chịu được nước có độ mặn rất thấp với điều kiện là độ cứng canxi là đủ, chúng tôi muốn giải thích tại sao nước trong đất liền có độ mặn thấp là không thích hợp cho tỷ lệ sống của tôm, cho dù độ cứng của nước thì thích hợp. Tiếp theo là một suy đoán chưa được kiểm tra thực nghiệm. Khi ở độ mặn thấp, sự co giãn của kênh kali trong các đỉnh màng là mở ra để cho phép kali di chuyển ra ngoài tế bào đến dịch bào có nồng độ thấp hơn và do đó giảm nước di chuyển vào trong. Theo đó kali thấp và magiê thấp làm rối loạn các chức năng thông thường của tế bào ty thể (tế bào chlorua), ảnh hưởng đến quá trình điều hòa thẩm thấu của vật nuôi.
Các kỹ thuật điều hòa
Điều chỉnh nước
Một biến số khác cần xem xét khi vận chuyển PL penaeid đến nước độ mặn thấp trong đất liền là tuổi của PL (McGraw và ctv 2002; Saoud và ctv 2003). Nước trong hệ thống ương cũng sẽ không giống hoàn toàn so với nước trong ao nuôi. Để thuần tôm từ hệ thống ương đến ao nuôi ở Alabama, tôm được thuần ở trên bờ ao trong 1–2 giờ trước khi chuyển xuống ao. Nước được bơm từ các ao lên bể thuần (có sục khí) cho đến khi cùng nhiệt độ và độ mặn của ao nuôi.
Cho ăn
Để thành công trong nuôi tôm nội địa độ mặn thấp, người nuôi đã bổ sung thành phần giàu kali và magiê trực tiếp vào ao, một số nhà nghiên cứu cũng khám phá khẩu phần thức ăn bổ sung thêm thành phần các ion này để xem khả năng cải thiện điều hòa thẩm thấu của tôm trong độ mặn thấp. tuy nhiên, việc bổ sung các loại Khoáng này hàng năm có thể tốn kém.
Khoáng chất
Tôm, giống như các động vật giáp xác, có nhu cầu khoáng chất nhất định để duy trì sự trao đổi chất và sự phát triển. Ngoài việc cân bằng axit-bazơ để duy trì điện thế màng tế bào, các khoáng chất hòa tan như canxi, natri, kali và clorua cũng đóng một vai trò trong điều hòa thẩm thấu (Mantel & Farmer 1983; Pequeux 1995).
Amino axit
Bổ sung axit amin tự do (FAA) trong thức ăn cho tôm cũng đã được đề xuất như một cách tiềm năng để cải thiện khả năng điều hòa thẩm thấu của tôm nuôi ở độ mặn thấp (Saoud & Davis 2005; Saoud và ctv 2007). Hầu hết các loài rộng muối, như L. vannamei, sở hữu khả năng điều hòa thể tích tế bào để chống lại thay đổi đột ngột về độ mặn, cơ chế này liên quan đến amino axit không thiết yếu (NAA) nào đó và các hợp chất amoni bậc bốn (QAC). Các NAA và QAC này hiện diện trong tế bào chất của tế bào và có thể chiếm vai trò lớn trong điều hòa thẩm thấu (Florkin & Schoffeniels 1969; Henry 1995).
Phospholipid và cholesterol
Gong et al. (2004) đề nghị rằng phospholipid và cholesterol có thể là quan trọng cho tôm được nuôi trong nước có độ mặn thấp vì vai trò của chúng trong huy động lipid và dự trữ trong gan tụy. Phospho lipid cần thiết cho cấu trúc và chức năng bình thường của tế bào vì vai trò của chúng như là chất béo phân cực tạo nên một phần của màng tế bào (Teshima 1986; Teshima et al. 1997).
Các acid béo chưa bão hòa
Do vai trò của axit béo trong dịch màng tế bào, nhiều nghiên cứu đánh giá các bổ sung acid béo chưa bão (HUFA) và tỷ lệ các n-3 ⁄ n-6 trong khẩu phần thức ăn tôm thẻ nuôi ở độ mặn thấp. Cả postlarval và tôm con đã tăng khả năng thích nghi với độ mặn thấp khi khẩu phần được bổ sung HUFA (Rees et al. 1994; Wouters et al. 1997; Chim et al. 2001; Palacios và ctv. 2004). Tăng khả năng thích nghi với độ mặn thấp bắt nguồn từ tác động của HUFA lên cơ chế điều hòa thẩm thấu ở L. vannamei (Palacios et al. 2004), cụ thể là các hoạt động của Na + –K + –ATPase và cacbonic anhydrase.
Litopenaeus vannamei nuôi ở độ mặn thấp có khả năng điều hòa cao (Roy et al. 2007c) khi chúng phải điều tiết liên tục để duy trì cân bằng nội môi. Chi phí năng lượng của sự điều hòa thẩm thấu và ion có thể dẫn đến việc dành ít năng lượng hơn cho tăng trưởng. Nó đã được giả thuyết rằng việc bổ sung vào khẩu phần nhiều HUFA sẽ làm cho quá trình điều hòa thẩm thấu ở các vùng nước có độ mặn thấp hiệu quả hơn cho L. vannamei (Palacios et al. 2004; Gonz a ´ lez-F e ´ lix et al. 2009).
Bổ sung các dinh dưỡng khác
Khẩu phần cacbohydrat cũng đã đánh giá ở L. vannamei được nuôi ở vùng nước có độ mặn thấp. Trong 5 tuần nghiên cứu đánh giá ảnh hưởng của mức carbohydrate trong khẩu phần tại độ mặn khác nhau (1%, 2%, 4%, số 8% và 16%) Wang et al. (2004) báo cáo rằng tốc độ tăng trưởng cụ thể là cao hơn ở độ mặn thấp hơn khi tôm được cung cấp khẩu phần cacbohydrat cao hơn. Trong nghiên cứu này, các các tác giả phỏng đoán rằng mức carbohydrate trong khẩu phần cao hơn có thể giúp chống lại chi phí năng lượng cao hơn của quá trình điều hòa thẩm thấu ở độ mặn thấp.
Kết luận
Nuôi tôm biển trong nội địa dường như sẽ tiếp tục mở rộng trên toàn thế giới, đặc biệt là ở những vùng đất liền có nguồn nước độ mặn thấp. Khi các biện pháp kỷ thuật ngày một tinh luyện hơn, tỷ lệ sống tốt hơn, tăng trưởng và sản lượng của tôm sẽ đạt được.
Giải pháp của Vinhthinh Biostadt
Bổ sung khoáng chất duy trì việc trao đổi chất và điều hoà áp suất thẩm thấu
Tôm, giống như các động vật giáp xác, có nhu cầu khoáng chất nhất định để duy trì sự trao đổi chất và sự phát triển. Ngoài việc cân bằng axit-bazơ để duy trì điện thế màng tế bào, các khoáng chất hòa tan như canxi, natri, kali và clorua cũng đóng một vai trò trong điều hòa thẩm thấu (Mantel & Farmer 1983; Pequeux 1995).
Giải pháp ương vèo và nuôi 03 giai đoạn Vinhthinh Biostadt – Hướng đến phát triển bền vững
Vinhthinh Biostadt đã chuyển giao thành công toàn bộ quy trình ương tôm mật độ cao và quy trình chăm sóc tôm sau khi chuyển ra ao nuôi bạt hoặc ao đáy đất với tỷ lệ ương thành công lên đến 98% và tỷ lệ nuôi trong thành công lên đến 88% trên toàn quốc. Liên hệ đội ngũ nhân viên Vinhthinh Biostadt để được tư vấn kỹ hơn cho từng khách hàng
Lược dịch : Phòng Nuôi tôm công nghệ cao Vinhthinh Biostadt
Nguồn : Shrimp culture in inland low salinity waters Luke A. Roy1, D. Allen Davis1, I. Patrick Saoud2, Chris A. Boyd3, Harvey J. Pine4 and Claude E. Boyd1 Reviews in Aquaculture (2010) 2, 191–208.